Pháp luật quyền tác giả dù có được xây dụng đầy đủ đến đâu, nhưng pháp luật đó có được nhận thức đầy đủ và tự giác thi hành hay không lại phụ thuộc vào trình độ văn hoá và ý thức pháp luật của các tác giả, chủ sở hữu quyền, người khai thác, sử dụng tác phẩm, của công chúng nói chung và của các cán bộ, công chức của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thực tiễn cho thấy nhiều trường hợp vi phạm pháp luật về quyền tác giả là do trình độ văn hóa thấp, thiếu hiểu biết pháp luật của một bộ phận nhân dân. Tuy vậy, vẫn còn một bộ phận công dân có trình độ văn hóa nhất định, hiểu biết pháp luật nhưng đạo đức, nhân cách thấp kém vẫn cố tình vi phạm pháp luật, có những hành vi xử sự không đúng với yêu cầu của pháp luật.
Nhìn chung, trong một xã hội phát triển, trình độ văn hóa của nhân dân ngày càng được nâng cao sẽ tạo cơ sở thực hiện giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân. Nhờ có trình độ văn hóa nhất định mới có thể tiếp thu, nhận thức, nâng cao hiểu biết pháp luật, xây dựng tình cảm, lòng tin vào pháp luật và chuyển hóa thành hành vi tích cực thực hiện theo yêu cầu của pháp luật. Mặt khác, trình độ văn hóa, ý thức pháp luật của nhân dân được nâng cao, tạo cơ sở thuận lợi để nhân dân tham gia các hoạt động giám sát và phản biện xã hội đối với việc quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước và các cán bộ, công chức Nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả của việc quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả [32].
Một xã hội ổn định và có kỷ cương phải là một xã hội mà trong đó mọi tầng lớp nhân dân đều ý thức được rằng tự do và lợi ích của mình được đảm bảo bằng sự tôn trọng tự do và lợi ích của người khác, tôn trọng và thực hiện pháp luật nghiêm chỉnh. Và ở đâu có được sự nhận thức, hành động như vậy thì có thể khẳng định rằng ở đó ý thức pháp luật đã đạt tới trình độ cao [26].
Khi ý thức của các chủ thể trong quan hệ pháp luật quyền tác giả về quyền và nghĩa vụ của mình được thể hiện đầy đủ, tự giác, nhận thức trong xã hội về sự cần thiết của việc bảo hộ quyền tác giả được nâng cao, sẽ hình thành văn hóa pháp lý về quyền tác giả trong xã hội. Văn hóa pháp lý là việc mọi chủ thể pháp luật
điều chỉnh hành vi của mình một cách tự giác, phù hợp với quy định của pháp luật, không làm những việc mà pháp luật cấm. Văn hóa pháp lý về quyền tác giả ở trình độ cao thể hiện ở chỗ người sáng tạo nào, khi sáng tạo ra một tác phẩm, đều sẵn lòng đưa tác phẩm đến với công chúng, đem lại những giá trị tinh thần và nhân văn cao đẹp cho xã hội. Người khai thác, sử dụng tác phẩm, khi được hưởng lợi từ tác phẩm, có nghĩa vụ trả nhuận bút, thù lao, coi đó là sự đền bù mà người sáng tạo xứng đáng được hưởng để tiếp tục sáng tạo ra những tác phẩm mởi. Nhà nước xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về quyền tác giả, hướng dẫn công dân thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định, giải quyết các tranh chấp phát sinh, xử lý nghiêm minh và kịp thời các hành vi xâm phạm quyền tác giả.
Việc xây dựng, nâng cao ý thức pháp luật về quyền tác giả trong nhân dân là quá trình nâng cao sự hiểu biết pháp luật về quyền tác giả của mỗi người dân, khuyến khích thói quen sống, làm việc theo pháp luật, tạo năng lực đánh giá đúng đắn và thực hiện các hành vi trong xã hội. Những năm qua ở nước ta, nhiều người dân chưa nhận thức đúng và đầy đủ về pháp luật quyền tác giả, ít quan tâm tới pháp luật. Do vậy, một số người đã vi phạm pháp luật do kém hiểu biết và sự kém hiểu biết về pháp luật đôi khi còn làm cho họ thậm chí không ý thức được rằng quyền, lợi ích hợp pháp của họ có bị vi phạm hay không. Điều này, một mặt làm giảm khả năng của chủ thể quyền tự bảo vệ quyền lợi của mình khi bị xâm phạm, mặt khác cũng góp phần làm tăng khả năng khiếu kiện bừa bãi, không đủ căn cứ, không đúng trình tự, thẩm quyền, dẫn đến bất ổn định xã hội. Tình trạng kém hiểu biết pháp luật về quyền tác giả dễ tạo nên tâm lý thờ ơ, lãnh đạm, thậm chí coi thường pháp luật, dẫn đến có những hành vi xử sự không đúng với quy định của pháp luật.
1.4.4. Hợp tác quốc tế trong quản lý, thực thi bảo hộ quyền tác giả
Ngày nay, quyền tác giả đã trở thành một bộ phận của thương mại quốc tế, đây là vấn đề được đặt ra trên bàn đàm phán của hầu hết các hiệp định kinh tế giữa các quốc gia và khu vực, như trong các cuộc đàm phàn về GATT/TRIPS (tài
sản trí tuệ có liên quan đến Hiệp định buôn bán chung và Hiệp định mậu dịch), NAFTA (Hiệp định mậu dịch tự do Bắc Mỹ) và hàng loạt các hiệp định song phương với Mỹ và Cộng đồng Châu Âu, Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản...
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Niệm Quản Lý Nhà Nước Bằng Pháp Luật Về Quyền Tác Giả
- Tổ Chức Thực Hiện Pháp Luật Về Quyền Tác Giả
- Vai Trò Của Quản Lý Nhà Nước Bằng Pháp Luật Về Quyền Tác Giả
- Bộ Văn Hoá, Thể Thao Và Du Lịch Và Cục Bản Quyền Tác Giả Trong Quản Lý Nhà Nước Về Quyền Tác Giả
- Thực Hiện Các Biện Pháp Bảo Vệ Quyền Và Lợi Ích Hợp Pháp Của Nhà Nước, Tổ Chức, Cá Nhân Trong Lĩnh Vực Bảo Hộ Quyền Tác Giả
- Quản Lý Hoạt Động Giám Định Về Quyền Tác Giả; Hoạt Động Đại Diện, Tư Vấn, Dịch Vụ Quyền Tác Giả
Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.
Trước sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin, đặc biệt là internet, vấn đề bảo hộ quyền tác giả không chỉ là vấn đề của mỗi quốc gia mà nó đã trở thành vấn đề mang tính chất quốc tế. Trong điều kiện giao lưu văn hóa và hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng như hiện nay, giá trị khoa học, nghiên cứu, giáo dục của các tác phẩm là các tác giả ở nước phát triển có thể được khai thác, sử dụng ở một nước đang phát triển, và ngược lại, giá trị văn hóa phong phú, đa dạng của các tác phẩm văn học, nghệ thuật của tác giả của các nước đang phát triển có thể tìm hiểu và phổ biến ở các nước phát triển. Do đó, đặt ra nhu cầu hợp tác quốc tế trong việc bảo hộ quyền tác giả. Bảo hộ quyền tác giả khuyến khích công dân tự do sáng tạo và phổ biến các tác phẩm văn học và nghệ thuật, thúc đẩy sự giao lưu, trao đổi văn hóa giữa các quốc gia dựa trên tính đa dạng của nền văn hóa và những quan tâm về công nghệ. Việc trao đổi, hợp tác đó sẽ đem lại cho quốc gia những lợi ích tích cực.
Về nguyên tắc, luật quyền tác giả của một nước chỉ có hiệu lực ở nước đó, việc bảo hộ quyền tác giả chỉ bó hẹp trong phạm vi của từng nước. Trong khi đó, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học ngày càng được sáng tạo ra nhiều hơn, và chúng đã vượt biên giới các nước như một loại hàng hóa, không một ai có thể ngăn cản. Vì vậy, các nước đã phải tiến hành ký kết các hiệp định song phương, đa phương về vấn đề này để bảo hộ quyền tác giả một cách hữu hiệu.
Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), chúng ta đã tham gia 5 công ước quốc tế về quyền tác giả, quyền liên quan, và cam kết tại Hiệp định Bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ với Liên bang Thụy Sĩ, Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ. Việc thực hiện các công ước quốc tế cũng như các Hiệp định song phương về lĩnh vực này vừa là thách thức, vừa là thời cơ cho việc thúc đẩy hoạt động bảo hộ trong nước và hội nhập quốc tế. Quy tắc đãi ngộ
quốc gia được quy định trong luật quyền tác giả quốc tế, có nghĩa là quyền lợi của cá nhân, tổ chức nước ngoài được đãi ngộ như cá nhân, tổ chức trong nước. Nguyên tắc này là nền tảng trong quan hệ mậu dịch quốc tế đối với việc bảo hộ quyền lợi cho tác phẩm và sản phẩm văn hóa.
Trong “tầm nhìn và định hướng chiến lược của WIPO”, Tổng giám đốc WIPO đã khẳng định: Sở hữu trí tuệ có ý nghĩa trung tâm đối với sự tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng bao nhiêu thì sự thách thức trong việc xây dựng hệ thống sở hữu trí tuệ quốc tế để sao cho nó trở thành công cụ phát triển kinh tế và xã hội sẽ càng lớn bấy nhiêu. Thêm vào đó, trong khi nhấn mạnh lợi ích kinh tế của những sáng tạo thuộc sở hữu trí tuệ thì cũng nhất thiết phải dành một vị trí thích đáng cho các khía cạnh văn hóa tuy ít cụ thể hơn về kinh tế nhưng có tầm quan trọng không kém, cụ thể là cho niềm vui nghệ thuật và trí tuệ mà những sự sáng tạo đó mang lại, làm giàu cho cuộc sống hàng ngày và nền văn hóa trường tồn của chúng ta.
Bảo hộ quyền tác giả là một lĩnh vực còn mới mẻ ở các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Thông qua hợp tác quốc tế, các quốc gia phát triển, các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, với kinh nghiệm lâu năm trong việc bảo hộ quyền tác giả, có thể giúp đỡ các quốc gia đang phát triển về chuyên môn, kỹ thuật, tài chính để bảo hộ quyền tác giả đạt hiệu quả.
1.5. Kinh nghiệm quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả ở một số quốc gia trên thế giới
1.5.1. Quản lý nhà nước bằng pháp luật về quyền tác giả ở một số nước trên thế giới.
Hoạt động bảo hộ quyền tác giả đã ra đời cách đây gần 300 năm và ngày càng phát triển. Cho đến nay, hầu như quốc gia nào cũng đã thiết lập hệ thống bảo hộ quyền tác giả cho quốc gia mình. Mỗi quốc gia xây dựng hệ thống bảo hộ quyền tác giả với những nét riêng phù hợp nhưng đều có những điểm chung, cơ bản giống nhau, đó là: Hệ thống các quy định của pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan; Hệ thống các cơ quan có thẩm
quyền liên quan đến thực thi bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan; Hệ thống các tổ chức đại diện quyền tác giả, quyền liên quan.
Tham khảo hệ thống bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan của một số quốc gia giúp chúng ta rút ra được những kinh nghiệm bổ ích trong hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật ở nước ta. Việc tham khảo này sẽ được xem xét trên khía quy định của pháp luật; cơ quan thực thi; cơ quan quản lý và hệ thống các tổ chức đại diện quyền tác giả, quyền liên quan.
Hoa Kỳ: có Luật Bản quyền (Luật số 17 Bộ luật Hợp chủng quốc Hoa Kỳ). Hệ thống các cơ quan thực thi bao gồm Bộ An ninh nội địa, Cục Điều tra Liên bang, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao…Để kết nối giữa các cơ quan thực thi toàn Liên bang, Hoa Kỳ thành lập Trung tâm điều phối quyền tác giả thuộc Bộ An ninh nội địa. Trung tâm có nhiệm vụ tiếp nhận các khiếu nại, các thông tin vi phạm về quyền tác giả, quyền liên quan; hợp tác các cơ quan để giải quyết. Trung tâm thường xuyên tổ chức trao đổi thông tin và tổ chức đào tạo, cung cấp các phương tiện kỹ thuật để phục vụ cho việc kiểm tra, kiểm soát chống vi phạm Tài chính của Trung tâm do Quốc hội cấp trực tiếp. Cơ quan quản lý quyền tác giả Hoa Kỳ trực thuộc Thư viện Quốc hội có khoảng 630 nhân viên, thực hiện chức năng quản lý Luật quyền tác giả, đăng ký tác phẩm, cung cấp thông tin…Mỗi năm, cấp giấy chứng nhận đăng ký khoảng một triệu tác phẩm, đối tượng quyền liên quan.
Hệ thống quản lý tập thể: Hiệp hội tác giả, nhà soạn nhạc và nhà xuất bản Hoa Kỳ (ALCS), Cơ quan đăng kí tác giả (The Authours Registry), Hiệp hội âm nhạc phát thanh, truyền hình (BMI), Trung tâm cấp phép bản quyền (Copyright Clearance center), Cơ quan cấp phép quyền xuất bản Liên hiệp nhà văn quốc gia (National Writer Union Publications Right Clearinghouse)…
Singapore: Singapore có Luật quyền tác giả, cơ quan sở hữu trí tuệ Singapore (IPOS) trực thuộc Bộ Công nghiệp. Năm 2000, Cơ quan được chuyển đổi thành cơ quan nửa tự chủ theo luật, ngoài những chức năng khác cơ quan này được giao trách nhiệm quản lý hệ thống sở hữu trí tuệ ở Singapore. Trên mặt trận thực thi quyền sở hữu trí tuệ, cơ quan trước tiên chịu trách nhiệm thực thi trong
nước là Chi nhánh quyền sở hữu trí tuệ - một phòng về tội phạm đặc biệt thuộc Cục điều tra hình sự, trong khi đó việc thực thi tại biên giới do Cục thuế và Hải quan thực hiện. Trong lĩnh vực giáo dục, Singapore tiến hành chiến dịch giáo dục công chúng dưới sự chỉ đạo của cơ quan Sở hữu trí tuệ Singapore và Hội đồng Khoa học và công nghệ quốc gia, nhằm mục đích tăng cường nhận thức của công chúng về sở hữu trí tuệ.
Singapore nhận ra tầm quan trọng của tài sản quyền tác giả đối với nền kinh tế của họ, vừa như là nguồn tài nguyên quốc gia và là nhân tố thu hút đầu tư nước ngoài. Để phát triển quyền tác giả như một tài sản có tính chiến lược và khả năng cạnh tranh, Singapore đã thông qua chính sách ủng hộ tích cực đối với quyền tác giả nhằm phát triển các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng và hàm lượng trí tuệ sáng tạo cao.
Pháp: Bộ luật Sở hữu trí tuệ quy định cho tất cả các đối tượng sở hữu trí tuệ, trong đó có quyền tác giả, một hệ thống thực thi gồm: Công an, Hải quan, Tòa án dân sự, Tòa án hình sự; cơ quan quản lý quyền tác giả thuộc Bộ văn hòa và Pháp ngữ. Có một số tổ chức quản lý tập thể như Hiệp hội tác giả văn học, Hiệp hội tác giả nghệ thuật tạo hình, Hiệp hội tác giả, nhà soạn nhạc và nhà xuất bản âm nhạc, Hiệp hội các tác giả và nhà soạn nhạc đối với tác phẩm nhạc kịch, Hiệp hội quản lý quyền sao chép của tác giả, nhà soạn nhạc và các nhà xuất bản âm nhạc…
Thái Lan: Đạo luật quyền tác giả số 2537 ban hành năm 1994; cơ quan thực thi gồm: Cảnh sát Hoàng gia Thái Lan, Cục Hải quan Hoàng Gia, Cục điều tra đặc biệt. Tòa án Sở hữu trí tuệ và thương mại quốc tế trung tâm được thành lập năm 1997. Cục Sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Thương mại, thành lập 1992, quản lý quyền tác giả, sáng chế và các đối tượng sở hữu trí tuệ khác. Cục sở hữu trí tuệ thúc đẩy việc khai thác, sử dụng tài sản trí tuệ nhằm mục đích thương mại và phối hợp với các cơ quan chính phủ có liên quan tổ chức các hoạt động thực thi. Thái Lan tiến hành các chiến dịch chống hàng sao chép lậu, nâng cao nhận thức công chúng về ảnh hưởng của hàng sao chép lậu, nâng cao nhận thức công chúng về
ảnh hưởng của hàng sao chép lậu đối với xã hội, khuyến khích công chúng sử dụng hàng hóa có bản quyền. Hệ thống tổ chức đại diện quyền tác giả, quyền liên quan: Công ty TNHH QTG âm nhạc, Công ty TNHH quyền ghi âm.
Trung Quốc: có Luật quyền tác giả; Hệ thống các cơ quan thực thi: Công an, hải quan, có Tòa về sở hữu trí tuệ trong đó có tòa chuyên trách về quyền tác giả, cơ quan quản lý quyền tác giả trực thuộc Hội đồng nhà nước, cơ quan quản lý quyền tác giả ở trung ương và địa phương; Hệ thống tổ chức đại diện quyền tác giả, quyền liên quan: có hiệp hội quyền tác giả, hiệp hội quyền tác giả âm nhạc. Từ năm 2005 đến nay, hàng năm Chính phủ Trung Quốc ban hành các chiến lược bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, trong đó có các kế hoạch cụ thể cho từng lĩnh vực.
Nhật Bản: có Luật quyền tác giả; Hệ thống các cơ quan thực thi: Công an, hải quan, cơ quan quản lý quyền tác giả thuộc cơ quan Ngoại giao văn hóa; Hệ thống tổ chức đại diện quyền tác giả, quyền liên quan: có hiệp hội các tác giả, nhà soạn nhạc và nhà xuất bản, hiệp hội các nhà văn, trung tâm quyền sao chụp, hiệp hội công nghiệp ghi âm, trung tâm quản lý quyền của người biểu diễn…
Hàn Quốc: có Luật quyền tác giả; Hệ thống các cơ quan thực thi: Công an, hải quan, cơ quan quản lý quyền tác giả thuộc Bộ văn hòa và du lịch; Hệ thống tổ chức đại diện quyền tác giả, quyền liên quan: hiệp hội quyền tác giả âm nhạc, hiệp hội những người biểu diễn nghệ thuật, hiệp hội nhà sản xuất bản ghi âm ghi hình… Từ thực tiễn xây dựng và quản lý quyền tác giả, quyền liên quan của các
nước, có thể thấy rằng:
- Về hệ thống pháp luật: Các nước trên thế giới đều quản lý hoạt động quyền tác giả, quyền liên quan thông qua hệ thống các quy định về quyền tác giả, quyền liên quan. Hầu hết các nước đều xây dựng một luật riêng về quyền tác giả, quyền liên quan. Một số ít nước gộp tất cả các đối tượng của sở hữu trí tuệ vào một bộ luật sở hữu trí tuệ trong đó có quyền tác giả, quyền liên quan.
- Hệ thống cơ quan thực thi gồm công an, hải quan, tòa án. Xu hướng có nhiều quốc gia hướng tới việc thành lập các cơ quan chuyên trách được đào tạo bài bản, có kinh nghiệm, được trao những quyền hạn đặc biệt: thực thi và cưỡng
chế thực hiện pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan như Thái Lan, Trung Quốc.
- Về hệ thống cơ quan quản lý quyền tác giả: Hầu hết các nước đều bố trí cơ quan quản lý quyền tác giả thuốc hệ thống cơ quan công quyền, chưa có nước nào thiết lập dạng tư nhân. Qua thống kê số liệu của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới, có tới trên 130 nước có cơ quan quản lý quyền tác giả, quyền liên quan độc lập với cơ quan quản lý sở hữu công nghiệp.
1.5.2. Một số kinh nghiệm có thể vận dụng ở Việt Nam
Trong điều kiện kinh tế, xã hội có nhiều thay đổi như hiện nay, các nhà lập pháp đang phải đối diện với rất nhiều vấn đề, thay vì phải đối diện với những giải pháp có nguy cơ kém khả thi, họ có thể khai thác, nghiên cứu, tham khảo, vận dụng, rút kinh nghiệm từ những quy định pháp luật của nước ngoài. Những bài học kinh nghiệm từ các quốc gia trong khu vực hoặc thế giới có thể áp dụng, vận dụng linh hoạt để trở thành giải pháp đơn giản, ít tốn kém mà lại hiệu quả cao. Tuy nhiên, có những nguyên tắc và cơ chế điều chỉnh pháp luật chỉ có thể hoạt động có hiệu quả trong một số điều kiện đặc thù của từng quốc gia, vì vậy có thể không phù hợp, thậm chí gây nguy hiểm đối với một số nước có truyền thống và loại hình xã hội khác. Vì vậy, khi chúng ta học hỏi kinh nghiệm pháp luật nước ngoài cần hết sức xem xét và thận trọng sao cho phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nước ta.
Học tập và rút kinh nghiệm các nước, Việt Nam đặc biệt chú trọng xây dựng hệ thống pháp luật về quyền tác giả, đáp ứng được điều kiện phát triển trong nước và phù hợp với thông lệ, luật pháp quốc tế. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về pháp luật trực thuộc hệ thống cơ quan công quyền, thống nhất quản lý từ trung ương đến địa phương. Việt Nam cũng xây dựng và phát triển hệ thống tổ chức đại diện quyền tác giả, quyền liên quan hay còn gọi là tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả.