thể chiếm giữ, sờ, nắm được. Đối với sở hữu trí tuệ, đối tượng sở hữu là tài sản tinh thần, không thể cần nắm một cách cụ thể. Sự khác biệt về đối tượng sở hữu đó đã tạo ra sự khác biệt trong nội dung quyền sở hữu tài sản với sở hữu trí tuệ nói chung và quyền tác giả nói riêng.
Trong sở hữu tài sản, với tính chất hữu hình của đối tượng sở hữu thì quyền chiếm hữu đặc biệt quan trọng bởi vì quyền sở hữu chỉ có ý nghĩa khi chủ sở hữu là người nắm giữ, quản lý tài sản trong thực tế hoặc việc nắm giữ, quản lý tài sản được thực hiện bởi người khác được chủ sở hữu cho phép.
Đối với quyền tác giả, các đối tượng là tài sản trí tuệ có đặc tính vô hình. Sau khi được bộc lộ công khai có thể lan truyền vô giới hạn nên quyền chiếm hữu đối tượng vật chất cụ thể mà trên đó tác phẩm được thể hiện không có ý nghĩa trong trường hợp này. Điều 202 Luật Quyền tác giả của Hoa Kỳ cũng quy định: "Quyền sở hữu quyền tác giả tác phẩm là độc lập với quyền sở hữu bất kỳ đối tượng vật chất thể hiện nào mà trên đó tác phẩm được thể hiện" [6].
Do mang đặc tính vô hình, nên các tranh chấp liên quan đến quyền tác giả bao giờ cũng phức tạp hơn sơ với các tranh chấp tài sản hữu hình. Là đối tượng của quyền sở hữu, nên các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học có thể trở thành đối tượng của các giao dịch mua bán. Tuy nhiên, sự mua bán này có những đặc thù nhất định. Nếu như các tài sản thông thường khác sau khi chuyển quyền sở hữu thông qua các giao dịch mua bán, người mua có toàn quyền đối với tài sản đó, còn giao dịch mua bán quyền tác giả được thực hiện song, chủ sở hữu tác phẩm vẫn có quyền đòi hỏi bảo đảm tính toàn vẹn của tác phẩm của mình. Quyền nhân thân được xem là độc lập với quyền tài sản và nói chung vẫn được dành cho tác giả, kể cả sau khi tác giả đã chuyển giao quyền của mình cho tổ chức, cá nhân khác [16, tr. 20].
Thứ tư, đối tượng của quyền tác giả được định hình dưới một dạng vật chất nhất định và thiên về việc bảo hộ hình thức thể hiện tác phẩm, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ quyền tác giả dễ bị xâm phạm hơn.
Đặc tính của các đối tượng của quyền tác giả (quyền sở hữu trí tuệ nói chung) là vô hình nên xã hội thường tiếp cận với các đối tượng này thông qua các dạng cụ thể của chúng, tức là khi chúng được vật chất hóa hoặc được thể hiện trên vật mang cụ thể.
Sự sáng tạo, ý tưởng của con người là trừu tượng và không giới hạn. Không ai trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy hay sờ vào những ý tưởng sáng tạo về văn học, nghệ thuật và khoa học. Người ta chỉ có thể tiếp cận, cảm nhận về tác phẩm thông qua các từ ngữ, âm thanh, nốt nhạc, màu sắc, đường nét, hình dáng … và cách thức tác giả lựa chọn, sắp xếp chúng.
Quyền tác giả đối với tác phẩm giới hạn trong phạm vi thể hiện cụ thể của tác phẩm mà không bao gồm ý tưởng của tác giả thể hiện trong tác phẩm bởi vì không một ai có thể biết được những vấn đề nằm trong suy nghĩ của người khác. Những ý tưởng, kể cả cách sắp xếp, trình bày đã có trong suy nghĩ của tác giả nhưng chưa được thể hiện ra bên ngoài bằng hình thức nhất định thì không có căn cứ để công nhận và bảo hộ.
Thứ năm, quyền tác giả xác lập theo cơ chế bảo hộ tự động và được bảo bộ một cách không tuyệt đối.
Quyền tác giả phát sinh và được bảo hộ về mặt pháp lý từ thời điểm sáng tạo ra tác phẩm mà không phụ thuộc vào thể thức và thủ tục đăng ký nào. Quyền tác giả được phát sinh mặc nhiên từ thời điểm tác phẩm được thể hiện dưới hình thức xác định mà người khác có thể nhận biết được. Quy định pháp luật quốc tế và các quốc gia trên thế giới đều xác định cơ chế bảo hộ tự động đối với quyền tác giả. Việc đăng ký quyền tác giả không phải là căn cứ làm phát sinh quyền tác giả mà chỉ có giá trị là chứng cứ chứng minh khi có tranh chấp về quyền tác giả.
Có thể bạn quan tâm!
- Vấn đề bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Hoa Kỳ - 1
- Vấn đề bảo hộ quyền tác giả theo pháp luật Hoa Kỳ - 2
- Lược Sử Sự Hình Thành Và Phát Triển Của Luật Quyền Tác Giả Hoa Kỳ
- Đối Tượng Và Phạm Vi Điều Chỉnh Của Luật Quyền Tác Giả
- Thời Hạn Bảo Hộ Quyền Tác Giả Và Những Hạn Chế Đối Với Quyền Tác Giả
Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.
Quyền tác giả là quyền cơ bản của con người, được pháp luật bảo hộ chặt chẽ theo cơ chế tự động. Tuy nhiên, sự bảo hộ đó cũng không phải hoàn toàn tuyệt đối. Việc sử dụng các tác phẩm đã được công bố, phổ biến và tác
phẩm không bị cấm sao chụp mà không nhằm mục đích kinh doanh; không làm ảnh hưởng đến việc sử dụng, khai thác bình thường của tác phẩm; không xâm hại đến các quyền, lợi ích hợp pháp của tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả thì không bị coi là vi phạm quyền tác giả. Trong Luật Quyền tác giả Hoa Kỳ cũng có quy định về các trường hợp như vậy và được gọi là trường hợp "sử dụng hợp lý" (điều này sẽ được phân tích ở chương 2 của luận văn).
1.2. BẢO HỘ QUYỀN TÁC GIẢ
1.2.1. Bản quyền tác giả và việc bảo hộ bản quyền tác giả
Bản quyền tác giả là bản quyền của người sáng tác ra tác phẩm có bản quyền hoặc là của người thuê người sáng tác ra tác phẩm có bản quyền trong phạm vi công việc được thuê, người thuê có thể là cá nhân hoặc công ty, hay trong một số trường hợp là bên hưởng hoa hồng đối với một số loại hình tác phẩm đặc biệt. "Tác giả" trong luật bản quyền không chỉ bao gồm nhà văn, nhà viết kịch, viết chuyên luận mà còn bao gồm cả lập trình viên máy tính, người sắp xếp dữ liệu trong sách tham khảo, người sáng tác và dàn dựng múa, nhiếp ảnh gia, nhà điêu khắc đá, họa sĩ vẽ tranh bích họa, người viết lời bài hát, người thu âm và người dịch sách.
Bản quyền là một thuật ngữ pháp lý mô tả quyền lợi kinh tế của người sáng tác ra các tác phẩm văn học và nghệ thuật, trong đó bao gồm quyền tái bản, in ấn và trình diễn hay trưng bày tác phẩm của mình trước công chúng [9]. Bản quyền chủ yếu nhằm bảo vệ âm nhạc, phim ảnh, tiểu thuyết, thơ ca, kiến trúc và các tác phẩm nghệ thuật có giá trị văn hóa khác. Khi nghệ sĩ và người sáng tác đưa ra những hình thức thể hiện khác thì những loại hình thể hiện mới này cũng được bao gồm trong trong những công trình được bảo hộ bản quyền. Các chương trình máy tính và ghi âm giờ đây cũng được bảo vệ.
Bản quyền cũng được bảo vệ lâu hơn nhiều so với một số hình thức sở hữu trí tuệ khác. Công ước Berne, công ước quốc tế được ký năm 1886, theo đó các nước tham gia công ước công nhận các tác phẩm được bảo hộ bản
quyền của các nước thành viên, quy định rằng thời gian bảo hộ bản quyền là 50 năm kể từ khi tác giả qua đời. Theo Công ước Berne thì các tác phẩm văn học, nghệ thuật và các tác phẩm có giá trị khác được bảo hộ bản quyền ngay từ khi ra đời. Tác giả không cần phải đăng ký chính thức quyền bảo hộ cho tác phẩm của mình tại những quốc gia là thành viên của Công ước đó.
Tuy nhiên, Công ước Berne cho phép cấp bản quyền có điều kiện, chẳng hạn như trường hợp của Hoa Kỳ chỉ bảo hộ bản quyền đối với những tác phẩm được sáng tác theo những hình thức nhất định. Nhiều nước cũng có các trung tâm bản quyền quốc gia để quản lý hệ thống bản quyền. Chẳng hạn, Hoa Kỳ, Hiến pháp cho phép Quốc hội ban hành luật để thiết lập hệ thống bản quyền và hệ thống này do Phòng Bản quyền thuộc Thư viện Quốc hội quản lý. Phòng Bản quyền của Hoa Kỳ là nơi nhận các khiếu nại về bản quyền và là nơi các văn bản liên quan tới bản quyền được lưu giữ khi đáp ứng được các yêu cầu của luật bản quyền Hoa Kỳ. Tuy nhiên, đối với tất cả các tác phẩm - kể cả tác phẩm nước ngoài - thì việc đăng ký bản quyền mau lẹ ở Hoa Kỳ sẽ đem lại những thuận lợi với chi phí không đáng kể.
Khả năng nhanh chóng đăng ký quyền bảo hộ bản quyền đã làm cho các ngành công nghiệp giải trí khổng lồ của Hoa Kỳ phát triển mạnh mẽ. Theo báo cáo năm 2004 của Stephen Siwek về các ngành công nghiệp được bảo hộ bản quyền trong nền kinh tế Hoa Kỳ thì các ngành công nghiệp được bảo hộ bản quyền "chủ yếu" ở Hoa Kỳ đóng góp 6% vào GDP năm 2002 của Hoa Kỳ, hay 626,2 tỷ đô-la Mỹ. Báo cáo định nghĩa các ngành công nghiệp được bảo hộ bản quyền "chủ yếu" là ngành báo chí, xuất bản sách, ghi âm, âm nhạc, tạp chí thường kỳ, phim ảnh, chương trình truyền hình và phát thanh, phần mềm máy tính. Trong báo cáo năm 2004 thì cửa hàng sách và quầy bán báo cũng được đưa thêm vào danh sách các ngành công nghiệp "chủ yếu".
Chỉ tác giả hay những người được tác giả trao quyền - chẳng hạn như nhà xuất bản - mới có toàn quyền khiếu nại về bản quyền. Tuy nhiên, cho dù là ai đang sở hữu bản quyền đi chăng nữa thì quyền đó cũng có giới hạn. Ví
dụ, ở Hoa Kỳ người ta có thể sao chép lại một phần tác phẩm với mục đích học tập, phê bình, đưa tin hay giảng dạy. Những quy định tương tự về "sử dụng hợp lý" cũng có ở những quốc gia khác.
Sử dụng hợp lý (Fair use) là biện hộ trước lời buộc tội vi phạm bản quyền hay nhãn hiệu. Đối với bản quyền, tòa án Hoa Kỳ xem xét bốn yếu tố trong việc xác định xem biện hộ về sử dụng hợp lý có tồn tại hay không: mục đích và tính chất của việc sử dụng đang gây tranh cãi; nội dung của tác phẩm có bản quyền; tầm quan trọng của phần được sử dụng với toàn bộ tác phẩm; tác động của việc sử dụng đối với giá trị của tác phẩm có bản quyền trên thị trường. Đối với nhãn hiệu, người sử dụng thứ hai phải cho thấy họ không sử dụng nhãn hiệu mô tả, nhãn hiệu mô tả địa lý hay tên riêng theo ý nghĩa nhãn hiệu mà chỉ mô tả hàng hóa hay dịch vụ của họ hay nguồn gốc địa lý của hàng hóa dịch vụ hoặc tên riêng của người chủ doanh nghiệp.
Bản quyền bảo vệ việc xử lý số liệu nhưng không bảo vệ những số liệu mới được thu thập. Hơn nữa, bản quyền không bảo vệ ý tưởng hay quy trình mới; nếu ý tưởng hay quy trình được bảo hộ thì sẽ được bảo hộ trong bằng sáng chế. Như vậy, bản quyền là quyền duy nhất do chính phủ trao cho tác giả hoặc thừa nhận đối với tác giả một tác phẩm nhằm ngăn chặn những người khác không được phép in sao, sửa đổi, phát hành ra công chúng, biểu diễn hay trình diễn trước công chúng. Bản quyền không bảo vệ những ý tưởng trừu tượng; bản quyền chỉ bảo vệ những hình thức diễn đạt cụ thể trong một tác phẩm. Để được bảo hộ thì tác phẩm được cấp bản quyền phải có tính nguyên bản và một chút tính sáng tạo.
Theo quy định của Thông tư số 1 của Cục Bản quyền, Thư viện Quốc hội Mỹ, tháng 7/2006, bản quyền là một hình thức bảo hộ của luật pháp Hoa Kỳ (Điều 17 Bộ luật Hoa Kỳ) đối với tác giả của "các tác phẩm gốc của tác giả", bao gồm tác phẩm văn học, sân khấu, âm nhạc, nghệ thuật và các tác phẩm trí tuệ khác. Hình thức bảo hộ được áp dụng với các tác phẩm đã được
xuất bản cũng như chưa được xuất bản. Mục 106, Đạo luật Bản quyền năm 1976 quy định chủ sở hữu bản quyền có toàn quyền thực hiện và cho phép người khác thực hiện những hành vi sau đây:
- Tái sản xuất tác phẩm dưới dạng các bản sao hoặc bản lưu giữ âm thanh;
- Sáng tạo tác phẩm phái sinh dựa trên tác phẩm đó;
- Phân phối bản sao hoặc bản lưu giữ âm thanh của tác phẩm tới công chúng dưới hình thức bán hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu, hoặc cho thuê mướn;
- Trình diễn công khai tác phẩm, nếu là tác phẩm văn học, âm nhạc, sân khấu, vũ ba-lê, kịch câm, tác phẩm điện ảnh và các tác phẩm nghe nhìn khác;
- Trưng bày công khai tác phẩm, nếu là tác phẩm văn học, âm nhạc, sân khấu, vũ ba-lê, kịch câm và tác phẩm nhiếp ảnh, đồ họa hoặc điêu khắc, kể cả những hình ảnh đơn lẻ của tác phẩm điện ảnh hoặc tác phẩm nghe nhìn khác;
- Đối với bản ghi âm, có quyền trình diễn tác phẩm công khai bằng phương tiện truyền âm kỹ thuật số. Bản ghi âm được định nghĩa trong luật là "tác phẩm có được sau khi ghi âm một loạt âm thanh bao gồm nhạc, tiếng nói và các âm thanh khác, nhưng không bao gồm nhạc đệm cho phim hoặc tác phẩm nghe nhìn". Những ví dụ phổ biến gồm bản ghi âm nhạc, sân khấu hoặc các bài giảng. Bản ghi âm không giống với bản lưu giữ âm thanh. Bản lưu giữ âm thanh là vật thể chứa đựng các tác phẩm có bản quyền. Thuật ngữ "bản lưu giữ âm thanh" là để chỉ băng cát-xét, đĩa CD, đĩa hát nhựa (LP), đĩa loại 45 vòng/phút cũng như các loại băng đĩa khác.
Ngoài ra, một số tác giả của tác phẩm nghệ thuật thị giác còn có các quyền về nguồn gốc và bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm được nêu tại mục 106A, Đạo luật Bản quyền năm 1976. Để có thêm thông tin, yêu cầu xem Thông tư số 40, Việc đăng ký bản quyền đối với các tác phẩm nghệ thuật thị giác.
Sẽ là phạm pháp nếu vi phạm các quyền quy định trong luật bản quyền đối với chủ sở hữu bản quyền. Tuy nhiên, các quyền này không phải là
không có giới hạn. Các mục từ 107 đến 121, Đạo luật Bản quyền năm 1976 quy định những hạn chế đối với các quyền này. Trong một số trường hợp, những hạn chế này là việc miễn trách nhiệm pháp lý liên quan tới bản quyền. Một hạn chế lớn khác là học thuyết "sử dụng hợp lý", được quy định tại mục 107 của Đạo luật Bản quyền năm 1976. Trong các trường hợp khác, hạn chế đối với các quyền này được thể hiện dưới hình thức một kiểu "giấy phép bắt buộc", theo đó để được sử dụng hạn chế tác phẩm có bản quyền người ta phải trả tiền bản quyền và tuân thủ các điều kiện pháp luật quy định. Để có thêm thông tin về những hạn chế đối với bất kỳ quyền nào trong số những quyền này, nên tham khảo luật bản quyền hoặc gửi thư cho Cục Bản quyền. Như vậy:
Một là, các tác phẩm tác phẩm văn học, âm nhạc, khoa học hay nghệ thuật thể hiện quá trình sáng tạo, làm việc nghiêm túc của tác giả các tác phẩm đó, do vậy, việc bảo hộ quyền tác giả thể hiện sự trân trọng quyền sáng tạo đã được hiến pháp quy định
Hai là, bảo hộ quyền tác giả góp phần ngăn chặn tình trạng xâm phạm bản quyền tác giả đang diễn ra khắp nơi trên phạm vi toàn cầu. Đánh cắp/ ăn cắp bản quyền là việc sao chép y nguyên, không được ủy quyền và bất hợp pháp một tác phẩm có bản quyền hay một sản phẩm có nhãn hiệu với quy mô kinh doanh.
Ba là, bảo hộ quyền tác giả có tác dụng rất lớn trong việc khuyến khích hoạt động sáng tạo trong toàn bộ đời sống xã hội
1.2.2. Ý nghĩa và các nguyên tắc bảo hộ quyền tác giả
1.2.2.1. Ý nghĩa của việc bảo bộ quyền tác giả
Thứ nhất, bảo hộ quyền tác giả góp phần thúc đẩy sức sáng tạo và sự phát triển của văn học, nghệ thuật và khoa học góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội không chỉ trong phạm vi quốc gia mà còn cả trên trường quốc tế.
Nhìn vào lịch sử phát triển của các quốc gia, nhất là các nước công nghiệp phát triển, sở hữu trí tuệ được đánh giá là loại tài sản chiếm vị trí quan trọng nhất đối với sự tăng trưởng của đất nước. Với mỗi phát minh, sáng chế
ra đời và được bảo hộ, chủ thể sở hữu sản phẩm trí tuệ đó không những có được tỷ lệ tiền bản quyền cao hơn và có giá trị thị trường cao hơn nhiều lần so với các tài sản vô hình khác, mà chính người mua quyền sở hữu trí tuệ đó và người xin cấp giấy phép sử dụng cũng vui lòng trả nhiều tiền hơn do có sự bảo hộ. Việc bảo hộ này nhằm giảm rủi ro trong các giao dịch thương mại về quyền sở hữu trí tuệ, nhưng đồng thời cũng tạo nguồn thu cho nhà nước thông qua việc cung cấp các hiệp định bảo hộ và nhân lên nhiều lần giá trị sử dụng của các tài sản trí tuệ đã được bảo hộ đó bằng việc thương mại hoá chúng, chính việc thương mại hóa các tài sản trí tuệ đã đem lại cho chủ thể sở hữu cũng như những người mua quyền sử dụng tài sản trí tuệ đó những lợi ích kinh tế. Ví như với việc mỗi năm có đến hàng trăm các phát minh, sáng chế mới ra đời, NOKIA không chỉ thu được lợi nhuận khổng lồ từ những sản phẩm trí tuệ mới này được cung cấp bởi chính hãng mà còn thu được nhiều tỷ USD từ việc bán bản quyền. Theo tài liệu của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới thì tổng thu nhập từ bản quyền về sáng chế trên toàn thế giới tăng từ 10 tỷ USD năm 1990 lên 110 tỷ USD năm 2000; riêng hãng máy tính IBM (Mỹ) năm 2000 đã thu được 1,7 tỷ USD.
Bảo hộ quyền tác giả là bảo hộ cho người sáng tạo, người phổ biến, người bảo tồn tác phẩm và di sản văn hóa. Bảo hộ quyền tác giả là biện pháp hữu hiệu khuyến khích lao động sáng tạo và phổ biến tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học, góp phần thúc đẩy sự phát triển mọi mặt của đời sống văn hóa, xã hội, đồng thời là động lực phát triển kinh tế tại mỗi quốc gia.
Quyền tác giả và quyền liên quan rất quan trọng đối với sự sáng tạo của con người, tạo cho họ nguồn động viên, khích lệ dưới hình thức thừa nhận và mang lại lợi ích kinh tế thỏa đáng. Thông qua hệ thống bảo hộ quyền tác giả, các nhà sáng tạo được đảm bảo rằng các tác phẩm của họ sẽ được phổ biến mà không có mối lo ngại bị sao chép hoặc đánh cắp bất hợp pháp. Điều này cho phép tăng khả năng truy cập và nâng cao sự thưởng thức văn hóa, tri thức và vui chơi, giải trí trên toàn thế giới.