viii
BẢNG
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH, SƠ ĐỒ
Bảng 2.1: Du lịch bền vững và du lịch không bền vững 21
Bảng 2.2: Các chỉ tiêu chung cho du lịch bền vững 26
Bảng 2.3: Các chỉ tiêu đặc thù của điểm du lịch 26
Bảng 2.4: Hệ thống chỉ tiêu môi trường dùng để đánh giá nhanh 27
Bảng 2.5: Vai trò chính quyền địa phương 30
Có thể bạn quan tâm!
- Vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong phát triển du lịch bền vững tỉnh Ninh Bình - 1
- Vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong phát triển du lịch bền vững tỉnh Ninh Bình - 3
- Một Số Vấn Đề Cơ Bản Về Phát Triển Du Lịch Bền Vững
- Vai Trò Của Chính Quyền Địa Phương Cấp Tỉnh Trong Phát Triển Du Lịch Bền Vững
Xem toàn bộ 176 trang tài liệu này.
Bảng 3.1: Kết quả hoạt động kinh doanh của ngành du lịch Ninh Bình thời kỳ 2005 -2013 61
Bảng 3.2: Công suất phòng khách sạn Trung bình cả nước 2006-2013 62
Bảng 3.3: Tổng hợp các dự án đầu tư xây dựng cơ bản từ năm 2001-2013 85
Bảng 3.4: Cơ sở lưu trú của tỉnh Ninh Bình 93
Bảng 3.5: Đánh giá của khách du lịch về dịch vụ lưu trú 94
Bảng 3.6: Đánh giá của du khách về chất lượng dịch vụ ăn uống 95
Bảng 3.7: Đánh giá của khách du lịch về dịch vụ vận chuyển 96
Bảng 3.8: Lao động ngành du lịch Ninh Bình 98
Bảng 3.9: Số lượng khách du lịch đến Ninh Bình 100
Bảng 3.10: Doanh thu từ hoạt động du lịch tại Ninh Bình 101
Bảng 4.1: Tổng hợp các chỉ tiêu phát triển du lịch tỉnh Ninh Bình đến năm 2020..118
HÌNH VẼ
Hình 2.1: Tam giác phát triển bền vững 18
Hình 2.2: Mô hình lục giác với 6 yếu tố 31
Hình 2.3: Cơ cấu của quá trình kinh doanh du lịch 32
Hình 4.1: Mô hình phát triển du lịch bền vững trên địa bàn tỉnh Ninh Bình 119
Hình 4.2: Các hướng chiến lược có thể lựa chọn cho danh mục sản phẩm du lịch ...126
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 3.1: Bản đồ du lịch tỉnh Ninh Bình 48
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài Luận án
Trong hơn ba thập kỷ qua, nhiều giáo trình, tài liệu và các thoả ước quốc tế đã đề cập đến chủ đề phát triển bền vững (Baker và cộng sự, 1997; BKGTW, 2003). Tại Việt Nam, phát triển bền vững đã trở thành đường lối, quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước. Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25 tháng 6 năm 1998 của Bộ Chính trị về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước nhấn mạnh: "Bảo vệ môi trường là một nội dung cơ bản không thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của tất cả các cấp, các ngành, là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước" (BCT, 1998). Quan điểm phát triển bền vững đã được tái khẳng định trong các văn kiện của Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam và trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 là: "Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường" và "Phát triển kinh tế-xã hội gắn chặt với bảo vệ và cải thiện môi trường, bảo đảm sự hài hoà giữa môi trường nhân tạo với môi trường thiên nhiên, giữ gìn đa dạng sinh học" (BCHTWĐ, 2001).
Để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững và thực hiện cam kết quốc tế, Chính phủ Việt Nam đã ban hành "Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam" (CTNS 21, 2004) theo Quyết định 153/QĐ-TTg ngày 17/8/2004 làm cơ sở cho việc xây dựng các chiến lược, quy hoạch tổng thể và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước cũng như của các ngành và địa phương
Phát triển du lịch bền vững đang trở thành chủ đề ngày càng được các quốc gia quan tâm. Nhận thức phổ biến trên thế giới cho rằng, để đạt được sự phát triển du lịch bền vững đòi hỏi phải quản lý tất cả các dạng tài nguyên theo cách nào đó để chúng ta có thể đáp ứng các nhu cầu kinh tế, xã hội và thẩm mỹ trong khi vẫn duy trì được bản sắc văn hoá, các quá trình sinh thái cơ bản, đa dạng sinh học và các hệ đảm bảo sự sống. Mục tiêu của Du lịch bền vững là: phát triển, gia tăng sự đóng góp của du lịch vào kinh tế và môi trường; cải thiện tính công bằng xã hội trong phát triển; cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng bản địa; đáp ứng cao độ nhu cầu của du khách và duy trì chất lượng môi trường.
Ninh Bình - nằm ở cực Nam đồng bằng châu thổ sông Hồng, là một tỉnh cửa ngõ từ miền Bắc vào miền Trung và miền Nam đất nước, nơi đây vừa là gạch nối,
2
vừa là ngã ba của ba nền văn hoá lớn: sông Hồng - sông Mã - Hoà Bình. Ninh Bình có 3 đường quốc lộ chính (1A, 10, 12A) và đường sắt xuyên Bắc - Nam chạy qua, tạo cho Ninh Bình vị trí là cầu nối giữa hai miền Nam Bắc, giữa các tỉnh miền núi Tây Bắc với miền xuôi, giữa các tỉnh duyên hải Bắc bộ với Hải Phòng. Vùng đất này lại được bao bọc bởi những dãy núi đá vôi, tạo nên nhiều danh lam thắng cảnh kỳ thú với những dòng sông thơ mộng, những hồ nước mênh mông, tất cả như đang thầm thì câu chuyện muôn đời của non và nước. Bên cạnh đó Ninh Bình còn có nhiều di tích lịch sử nhân văn và danh lam thắng cảnh nổi tiếng của đất nước như Cố đô Hoa Lư, khu du lịch sinh thái Tràng An được ví như "Hạ Long trên cạn" ( khu hang động Tràng An, khu Tam Cốc - Bích Động), Chùa Bái Đình, quần thể Nhà thờ đá Phát Diệm, Vườn quốc gia nguyên sinh Cúc Phương, khu thiên nhiên ngập nước Vân Long, suối nước nóng kênh gà, phòng tuyến Tam Điệp Biện Sơn… Tất cả những điều kiện đó đã tạo cho Ninh Bình một tiềm năng to lớn để phát triển đa dạng các loại hình du lịch hấp dẫn.
Thực tế trong những năm qua, ngành du lịch Ninh Bình đã có những đổi mới, có bước phát triển nhanh đang dần trở thành ngành kinh tế quan trọng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân, mở rộng các mối quan hệ, hợp tác của tỉnh, làm thay đổi hình ảnh Ninh Bình trong nhận thức của bạn bè trong nước và quốc tế. Hạ tầng du lịch của tỉnh được đầu tư lớn, các khu du lịch được hình thành và phát triển. Lượng khách du lịch đến Ninh Bình giai đoạn 2005-2013 ngày càng tăng. Tuy nhiên, những kết quả đã đạt được chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế; hiệu quả hoạt động kinh doanh du lịch còn thấp, chất lượng dịch vụ chưa cao; khách lưu trú, đặc biệt là khách quốc tế còn rất ít. Tại một số điểm tài nguyên có giá trị, mặc dù đã có được sự đầu tư khai thác, song thời gian qua những giá trị tài nguyên này chưa phát huy được để tạo thành sản phẩm du lịch hấp dẫn tương xứng. Nguyên nhân là do việc thu hút đầu tư còn chưa rộng mở, đầu tư còn dàn trải, sản phẩm du lịch tại các điểm, tuyến du lịch chưa đa dạng, thiếu tính hấp dẫn để thu hút khách; hoạt động kinh doanh lữ hành và vận chuyển khách chưa được quan tâm đúng mức; quảng bá du lịch thiếu tính chuyên nghiệp và chưa đồng bộ... Nếu không nghiên cứu một cách cụ thể, không đánh giá một cách khách quan về tiềm năng và thực trạng để đề ra định hướng, giải pháp khai thác có hiệu quả các tiềm năng du lịch thì không những không đạt được kết quả mong muốn mà còn gây ra tác động rất lớn đối với môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên, ảnh hưởng tới nhịp độ phát triển kinh tế chung của toàn tỉnh.
3
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài: Đề xuất giải pháp tăng cường vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong phát triển du lịch bền vững trên địa bàn tỉnh Ninh Bình tới năm 2020 và tầm nhìn 2030. Theo đó, luận án thực hiện được các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về phát triển du lịch bền vững; vai trò của chính quyền cấp tỉnh trong phát triển du lịch bền vững.
- Phân tích, đánh giá thực trạng vai trò của chính quyền cấp tỉnh trong phát triển du lịch bền vững trên địa bàn tỉnh Ninh Bình thời gian qua.
- Đề xuất các nhóm giải pháp tăng cường vai trò của chính quyền trong phát triển du lịch bền vững trên địa bàn Ninh Bình đến năm 2020 và tầm nhìn 2030.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao. Tuy nhiên, Luận án này chỉ tập trung nghiên cứu vai trò của chính quyền cấp tỉnh trong phát triển du lịch bền vững trên địa bàn cụ thể - tỉnh Ninh Bình.
- Phạm vi nghiên cứu: Vai trò chính quyền tỉnh Ninh Bình trong phát triển bền vững ngành du lịch trên địa bàn từ 2005 – 2013; đề xuất giải pháp đến năm 2020 và tầm nhìn 2030;
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương pháp nghiên cứu cơ bản. Đồng thời, sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: trừu tượng hóa khoa học, lôgic-lịch sử, phân tích-tổng hợp, thống kê, mô hình hóa, phỏng vấn sâu, điều tra khảo sát...
5. Những đóng góp mới của luận án
- Nghiên cứu lý luận chung về phát triển du lịch bền vững; ý nghĩa, mục tiêu, các yêu cầu, các nguyên tắc, các tiêu chí đánh giá phát triển du lịch bền vững; vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong phát triển du lịch bền vững; kinh nghiệm phát triển du lịch bền vững của một số quốc gia trên thể giới và một số địa phương trong nước, từ đó rút ra bài học cho phát triển bền vững du lịch Ninh Bình;
- Nghiên cứu và xác định được những vấn đề cơ bản liên quan đến vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong phát triển du lịch bền vững ở Ninh Bình bao gồm: xây dựng quy hoạch tổng thể, kế hoạch phát triển du lịch; tổ chức triển khai thực hiện các chính sách, pháp luật của nhà nước trong lĩnh vực du lịch; xây dựng cơ chế, chính sách nhằm thu hút đầu tư phát triển du lịch và ban hành văn bản quy
4
phạm pháp luật đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về du lịch ở địa phương; hỗ trợ nâng cao năng lực cho doanh nghiệp du lịch địa phương; tổ chức và hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch; quảng bá, xúc tiến du lịch, mở rộng thị trường khách du lịch; mở rộng liên kết, hợp tác phát triển du lịch; thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động du lịch,... Từ đó, khái quát được những vấn đề đặt ra đối với phát triển du lịch bền vững trên các mặt kinh tế - xã hội – môi trường;
- Đề xuất hệ thống các giải pháp đồng bộ và cụ thể đã được nghiên cứu nhằm phát huy những lợi thế và hạn chế bất cập để góp phần đảm bảo sự phát triển du lịch bền vững ở Ninh Bình theo những nguyên lý đã được xác định. Các giải pháp cụ thể này được phân tích và đưa ra trong các nhóm giải pháp cơ bản liên quan đến các góc độ đảm bảo phát triển du lịch bền vững bao gồm: Nhóm các giải pháp về xây dựng chiến lược phát triển du lịch bền vững tỉnh Ninh Bình; Giải pháp về xây dựng, ban hành các văn bản pháp quy phát triển du lịch bền vững tỉnh Ninh Bình; Giải pháp về xây dựng tổ chức bộ máy và tổ chức quản lý; Giải pháp về thanh tra, kiểm tra và các giải pháp điều kiện để phát triển du lịch bền vững tỉnh Ninh Bình.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án được chia làm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan các công trình nghiên cứu có liên quan đến chủ đề của luận án
Chương 2: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về vai trò của chính quyền
địa phương cấp tỉnh trong phát triển du lịch bền vững
Chương 3: Thực trạng vai trò của chính quyền cấp tỉnh trong phát triển du lịch bền vững tỉnh Ninh Bình
Chương 4: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của chính quyền địa phương cấp tỉnh trong phát triển du lịch bền vững tỉnh Ninh Bình
5
Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN CHỦ ĐỀ CỦA LUẬN ÁN
Sự phát triển nhanh và mạnh của ngành công nghiệp không khói trong những năm qua đã và đang mang lại nguồn thu quan trọng cho các nền kinh tế. Hơn nữa, với tiềm năng to lớn của mình, du lịch ngày càng được xem là một trong những ngành kinh tế lớn của thế giới. Tuy nhiên, cũng như các ngành kinh tế khác, phát triển của ngành du lịch ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm hơn của mỗi quốc gia, cũng như mỗi vùng địa phương và đã được đặt trong bối cảnh của sự phát triển hướng tới tính bền vững. Vì thế, chủ đề phát triển du lịch bền vững đang được nhiều nhà khoa học, các nhà quản lý trong và ngoài nước hết sức quan tâm. Liên quan đến chủ đề nghiên cứu, có thể chia thành các nhóm sau:
Nhóm 1: Nhóm các nghiên cứu về phát triển vùng địa phương và vai trò của Chính quyền địa phương cấp tỉnh trong phát triển các ngành và lĩnh vực tại địa phương. Liên quan đến nội dung này, trước hết phải kể đến Lý thuyết phát triển vành đai nông nghiệp (Thunen, 1833); lý thuyết về điểm trung tâm (Christaller, 1933); Lý thuyết cực phát triển (Perroux, 1949); Lý thuyết về phân bố doanh nghiệp trong phát triển lãnh thổ (Schoon). Tại Việt Nam, có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này như bài viết “Đổi mới nội dung hoạt động của các cấp chính quyền địa phương trong kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế” (Nguyễn Ký và cộng sự, 2006). Các tác giả tập trung phân tích làm rõ vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, trong đó có sự so sánh giữa vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó các tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng kinh tế của Nhà nước trong thời kỳ đổi mới. Tác giả Lương Xuân Quỳ (2002) tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, trong đó tác giả đặc biệt chú ý đến thẩm quyền, trách nhiệm của các cấp, các ngành trong việc xây dựng, triển khai quy hoạch, kế hoạch, nhất là đối với quy hoạch vùng. Các tác giả trong cuốn “Đổi mới nội dung hoạt động của các cấp chính quyền địa phương trong kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” thì tập trung nghiên cứu quá trình hình thành các cấp hành chính và điều chỉnh quy mô các đơn vị hình chính địa phương ở Việt nam cũng như đòi hỏi của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
6
đối với các cấp chính quyền địa phương (Nguyễn Ký và cộng sự, 2006). Từ đó, các tác giả đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới nội dung hoạt động của các cấp chính quyền địa phương trước yêu cầu của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Đối với tác giả Hoàng Văn Hoan (2002), dù kinh tế thị trường phát triển đến mức độ nào thì vai trò của Nhà nước vẫn rất quan trọng, nó trực tiếp hoặc gián tiếp thúc đẩy kinh tế - xã hội (Hoàng Văn Hoan, 2002). Tác giả Vũ Ngọc Nhung thì tập trung phân tích những nội dung cơ bản xung quanh vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường như vai trò điều chỉnh, tạo sân chơi chung, bảo hộ cho sản xuất trong nước,.. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra những vấn đề cơ bản xung quanh vai trò của Nhà nước Việt Nam trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Với tác giả Vũ Anh Tuấn, có hai vấn đề được đề cập: quan hệ giữa Nhà nước với thị trường và vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Tác giả đã chỉ ra tầm quan trọng của nhà nước với tư cách là chủ thể “trong” thị trường và “trên” thị trường góp phần đảm bảo sự ổn định và phát triển nền kinh tế thị trường,..
Các lý thuyết này đều cho rằng, vai trò hỗ trợ của chính quyền địa phương ngày càng trở nên quan trọng. Chính quyền cũng phải sáng tạo để hỗ trợ, cổ vũ sự sáng tạo của doanh nghiệp. Đồng thời, các doanh nghiệp lại đặt các vùng vào tình thế cạnh tranh với nhau theo các tiêu chí như nhân công tại chỗ, dịch vụ cho các doanh nghiệp, cơ sở hạ tầng... Trong thực tế, một số quốc gia đã thành công với việc phát triển kinh tế vùng và đã đem lại những thành công cho vùng và cả các quốc gia đó, như Vùng Baden - Wurttemberd, Đức; Thành phố công nghiệp Worcester, Masachusett (Mỹ); Đặc khu kinh tế Thâm Quyến và Hải Nam (Trung Quốc).
Nhóm 2: Nhóm các nghiên cứu có liên quan đến phát triển bền vững và phát triển bền vững các ngành của nền kinh tế. Xét về nguồn gốc triết lý "phát triển bền vững" đã có những nhìn nhận trước đây. Học thuyết Mác đã coi con người là một bộ phận không thể tách rời của giới tự nhiên. Chính Ăngghen đã cảnh báo về “sự trả thù của giới tự nhiên” khi chúng bị tổn thương. Trong thập kỷ 1960 và 1970, các vấn đề môi trường đã được nhận thức với sự tiên đoán của những người theo chủ nghĩa Malthus mới (neo-Malthusian) về sự bùng nổ dân số ở các nước đang phát triển hay sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự gia tăng ô nhiễm môi trường. Tuy vậy, đến Hội nghị của Liên hợp quốc (LHQ) về Môi trường con người (năm 1972 tại Stockholm), tầm quan trọng của vấn đề môi trường mới chính thức được thừa nhận. Trong báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” (còn được gọi là Báo cáo Brundtland) của Uỷ ban Thế giới về Môi trường và Phát triển (WCED)
7
năm 1987, người ta đã thừa nhận mối liên kết chặt chẽ giữa môi trường và phát triển và lần đầu tiên khái niệm phát triển bền vững mới được hiểu một cách đầy đủ "phát triển bền vững là sự phát triển vừa đáp ứng được nhu cầu của các thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng các yêu cầu của họ" (Brundtland, 1987) . Từ đó đến nay, khái niệm này liên tục được phát triển và hoàn thiện, đặc biệt kể từ sau Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển (năm 1992 tại Rio de Janeiro, Braxin) và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững (năm 2002 tại Johannesburg, Nam Phi). Vấn đề cốt lõi nhất của phát triển bền vững chính là sự phát triển bảo đảm sự bền vững trên cả ba mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
Ở Việt Nam, do sớm nhận thức được tầm quan trọng, tính bức thiết của vấn đề môi trường và phát triển bền vững, ngay sau Tuyên bố Rio, Đảng và Nhà nước đã ban hành hệ thống các cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững và các chính sách, pháp luật đó đã bước đầu đi vào cuộc sống. Học giả Ngô Doãn Vịnh (2005) cũng có một số công trình nghiên cứu liên quan. Trong tác phẩm "Bàn về phát triển kinh tế (Nghiên cứu con đường dẫn tới giàu sang)", học giả đã tập trung luận giải những vấn đề liên quan đến phát triển bền vững và đã đưa ra khái niệm "phát triển đến ngưỡng cho phép"; đồng thời những vấn đề cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững cũng đã được phân tích, làm sáng tỏ phần nào. Gần đây, được sự quan tâm đầu tư của Nhà nước, một số công trình nghiên cứu liên quan đến những vấn đề nêu trên đối với Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ cũng đã và đang được tiến hành; trong đó, điển hình là các nghiên cứu do Viện chiến lược phát triển thực hiện về quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội địa bàn trọng điểm Bắc Bộ (VCL, 1995); quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội Vùng KTTĐBB thời kỳ 2006 – 2020 (VCL, 2006b) và Đề tài thu thập, xây dựng hệ thống chỉ tiêu và đánh giá tiềm năng thế mạnh hiện trạng phát triển kinh tế - xã hội các vùng KTTĐ Việt Nam (VCL, 2006a).
Nhóm 3: Nhóm các nghiên cứu tổng quan về du lịch: Nhóm các công trình này có rất nhiều nội dung và đi vào từng lĩnh vực cụ thể của ngành du lịch, nhưng chủ yếu là tập trung vào các ngành nghề kinh doanh du lịch và phát triển ngành du lịch để du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia hoặc địa phương; các bài viết trên mới chỉ nghiên cứu một số khía cạnh, đưa ra hướng giải quyết từng phần về tour, tuyến, điểm du lịch. Cụ thể là Giáo trình Kinh tế Du lịch (Nguyễn