Kiểm Định Việc Xhtd Doanh Nghiệp Của Ngân Hàng Quốc Tế Việt Nam (Vib) – Chi Nhánh Hoàn Kiếm Bằng Mô Hình Logit

hạng có khách quan và phản ảnh có xác thực tình trạng trả nợ của KH phụ thuộc vào chất lượng thông tin. Thông tin dùng để xếp hạng KH theo nguồn nhập vào hệ thống xếp hạng của VIB ta có thể chia thành 3 nhóm: nhóm thứ nhất thông tin cứng do KH cung cấp (như thông tin tài chính) được Quan hệ KH nhập vào, thông tin trong hệ thống của VIB và thông tin dựa trên đánh giá của chính người xếp hạng… Qua phân tích ta thấy, từ người cung cấp thông tin (KH) đến người nhập thông tin vào hệ thống đều có động cơ làm sai lệnh các chỉ tiêu chấm điểm, dẫn đến kết quả xếp hạng tín dụng sai lệch.

- Nguồn thông tin do KH cung cấp: Ta thấy rằng KH luôn mong muốn vay được vốn của ngân hàng với lãi suất thấp nhất, bởi vậy khi muốn vay vốn họ luôn cung cấp các thông tin có lợi nhất cho mình nhằm có được xếp hạng cao để hưởng những ưu đãi tín dụng, đồng thời trong quá trình vay vốn, họ cũng che dấu các thông tin về tình trạng kinh doanh yếu kém nhằm trốn nợ. Đối với thực tế tại ngân hàng Quốc tế (VIB) – Chi nhánh Hoàn Kiếm, sau thời gian thực tập em thấy, hầu hết các doanh nghiệp có quan hệ doanh nghiệp tại chi nhánh đều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có số năm hoạt động từ 2 – 5 năm, có hệ thống kế toán kiểm toán manh mún, việc ghi chép số liệu mang tính tường thuật. Đồng thời, các báo cáo tài chính mà doanh nghiệp trong hồ sơ vay vốn hầu như không được kiểm toán, đều là các báo cáo tài chính nội bộ, hoàn toàn có thể được thay đổi bởi Doanh nghiệp mà không gặp khó khăn nào. Khi Chi nhánh Hoàn Kiếm yêu cầu họ cung cấp thông tin tài chính, để tăng tính trách nhiệm, ngân hàng chỉ yêu cầu doanh nghiệp đóng dấu giáp lai lên báo cáo của mình. Vậy ta thấy thông tin tài chính KH cung cấp không thực sự đáng tin cậy. Ngoài báo cáo tài chính thì Ngân hàng Quốc tế - VIB còn yêu cầu KH cung cấp Báo cáo thuế hàng tháng, Các hợp đồng kinh tế có giá trị lớn và hóa đơn giá trị gia tăng, tờ khai hải quan…song hầu hết các báo cáo này nhằm mục đích đánh giá xem doanh nghiệp có thực sự hoạt động không, mức độ hoạt động ra sao và có uy tín với bạn hàng hay không? Báo cáo thuế hàng tháng nhằm đánh giá doanh thu, chi phí của doanh nghiệp. Song nó không cho ta biết độ chính xác của các chỉ số tài chính.

- Nguồn thông tin do CBTD nhập vào hệ thống: Còn đối với cán bộ tín dụng, người trực tiếp nhập thông tin của KH vào hệ thống, thì ngoài áp lực doanh số, đồng thời có thể do những lợi ích mà việc cho KH vay vốn ở thời điểm chấm điểm, hoặc do trình độ còn hạn chế thì họ có thể nhập vào hệ thống những thông tin sai lệch do

cố tình hoặc vô tình dẫn đến kết quả xếp hạng không đúng thực tế…Ngoài các thông tin được nhập vào hệ thống còn nhiều bất cập thì việc chấm điểm các chỉ tiêu phi tài chính còn mang nhiều tính chủ quan của cán bộ chấm điểm, các tiêu chí chấm còn chung chung và người chấm có thể biết ngay chỉ tiêu như thế nào là một kết quả tốt khi cho điểm phi tài chính. Bởi rất nhiều chỉ tiêu phân cấp thành tốt, không tốt; hay rất phát triển, phát triển, kém phát triển, khó, rất khó, hay ổn định, không ổn định… Ngoài ra, có nhiều chỉ tiêu cán bộ tín dụng cũng không chắc chắn về thang chấm do trình độ và kinh nghiệm còn hạn chế như các chỉ tiêu về đánh giá ảnh hưởng của ngành, chính sách chỉnh phủ…

Sự ổn định của hệ thống phần mềm: Hệ thống phần mềm là trợ thủ đắc lực cho công tác chấm điểm xếp hạng, song việc thiết kế hệ thống phần mềm của ngân hàng chưa thực sự hiệu quả. Trong quá trình XHTD, phần mềm hay xảy ra lỗi trong quá trình nhập thông tin, làm thông tin phải nhập lại nhiều lần, hoặc đường truyền của hệ thống yếu làm, dẫn đến khi nhập xong không gửi thông tin lên hệ thống được, hệ thống yêu cầu nhập lại. Phần mềm được xây dựng để chấm điểm cho tất cả các doanh nghiệp, các chi tiêu được liệt kê đây đủ không được chọn lọc theo đặc thù riêng của từng ngành, dân đến tình trạng nhiều chỉ tiêu không có đối với doanh nghiệp đó nhưng phần mềm vẫn yêu cầu phải nhập thông tin, làm tổn nhiều thời gian.

Quy trình kiểm soát còn rờm rà: Quy trình kiểm soát thông tin nhập vào hệ thống còn rờm rà, chưa giải quyết nhanh chóng các lỗi phát sinh khi nhập thông tin, mang nhiều tính thủ tục, từ đó làm giảm hiệu quả và tính nhahn nhạy của việc CHT.

Vấn đề xếp hạng định kỳ: Việc tuân thủ xếp hạng định kỳ của chấm điểm tín dụng tại chi nhánh Hoàn Kiếm chưa được chấp hành nghiêm chỉnh. Theo quy định của Ngân hàng Quốc tế thì việc chấm điểm KH được thực hiện định kỳ theo Quý (nếu KH còn đang giao dịch tín dụng với ngân hàng). Song hầu như các doanh nghiệp cũng chưa cung cấp các báo cáo tài chính kịp thời theo từng quý, đồng thời mức độ đốc thúc từ cán bộ tín dụng cũng không quyết liệt. Hơn nữa, ngân hàng cũng không có chế tài và quy định cụ thể nếu KH không cung cấp đầy đủ thông tin hàng quý. Điều này làm cho việc đánh giá KH không được liên tục, kịp thời khó có thể phản ứng kịp thời nếu tình trạnh trả nợ của doanh nghiệp bị giảm sút. Ngân hàng chỉ có biện pháp yêu cầu KH cung cấp thông tin khi có nghi ngờ về nợ KH. Tức biện pháp mang tính đơn lẻ, không được quy định cụ thể trong các quy định. Điều này làm

giảm khả năng dự báo rủi ro không trả nợ từ KH từ đó làm tăng nguy cơ mất vốn đối với ngân hàng

Việc chấm điểm tín dụng của KH mang tính thời điểm: Các kết quả xếp hạng tín được thực hiện tại thời điểm KH có nhu cầu vay vốn hoặc định kỳ (theo quy định), song chưa có một bảng phân tích xu hướng điểm tín dụng của KH. Việc chấm điểm và xếp hạng như vậy chỉ cho biết tình trạng hiện tại của KH mà không biết được chiều hướng phát triển hay giảm sút trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để đề ra biện pháp phòng ngừa và bảo toàn vốn cho ngân hàng.

Giám sát kiểm tra kết quả xếp hạng tín dụng: Kết quả XHTD được trả về khi có sự phê duyệt của Trưởng đơn vị kinh doanh (Giám đốc KHDN của Chi nhánh). Song việc giám sát thông tin nhập hệ thống, kiểm tra tính xác thực của thông tin cũng là Trưởng đơn vị kinh doanh. Điều này có thể làm này sinh tình trạnh Giám đốc KHDN chấp nhận những thông tin không chính xác của KH. Từ đó ta thấy việc kết luận xếp hạng tín dụng của KH hầu như phụ thuộc vào quyết định của Trưởng đơn vị, đây là nguy cơ tiềm ẩn rủi ro khi Trưởng đơn vị kinh doanh cố tình làm sai.

Ngân hàng hiện nay chưa thực hiện được việc tính toán các hệ số tài chính trung bình ngành, nhóm ngành, do đó việc so sánh đánh giá các doanh nghiệp ở các ngành còn khó khăn, chưa thể hiện đúng đặc điểm của từng doanh nghiệp. Bởi vì, mỗi doanh nghiệp thuộc những ngành khác nhau đều có đặc trưng riêng so với doanh nghiệp khác. Tuy đây là một công tác rất khó khăn đối với Ngân hàng Quốc tế cũng như đối với cả các cơ quan quản lý Việt Nam, song để thực hiện mục tiêu trở thành một ngân hàng hiện đại, theo chuẩn quốc tế thì việc xây dựng các hệ số này là một điều cần phải được tính tới. Chỉ có như vậy việc đánh giá phân loại KH mới phản ánh đúng thực tế của KH.

Kết quả của việc xếp hạng tín dụng không là cơ sở mạnh để quyết định việc chấp nhận cho vay hay không cho vay. Đặc biệt hiện nay tại Chi nhánh Hoàn Kiếm, kết quả của xếp hạng tín dụng không thực sự có ý nghĩa trong việc quyết định xem KH có được vay vốn hay không? Nó chỉ có giá trị tham khảo và chủ yếu được dùng để xác định hạn mức tín dụng, lãi suất áp dụng đối với KH. Các KH đều được xem xét xem việc cho vay hay không đầu tiên phục thuộc vào đánh giá của cán bộ tín dụng giao dịch với KH, sau đó khi cán bộ tín dụng đánh giá có khả năng cho KH vay, họ sẽ thực hiện chấm điểm tín dụng, lập tờ trình và trình lên cấp quản lý để xem xét

chính thức việc KH có được vay hay không theo các đề xuất và điều kiện trong Tờ trình tín dụng.

Hơn nữa, trong hệ thống ngân hàng có một bản Excel nhằm đánh giá thử KH. Kết quả của việc đánh giá thử này có độ chính xác khoảng 90% - 95%, do đó Quan hệ KH thường dùng bản Excel này để xem kết quả đánh giá thử KH sau đó nếu hạng tín dụng chưa đủ hạn mức của KH thì yêu cầu KH điều chỉnh các chỉ số tài chính của mình để có được kết quả hợp lý đối với nhu cầu vay. Điều này, xét ở mặt tích cực thì nó tạo tính linh hoạt cho việc xếp hạng, tránh hiện tượng Quan hệ KH nhập thông tin nhầm lẫn, song kết quả xếp hạng lúc đó sẽ chịu ảnh hưởng của sự đánh giá chủ quan của người xếp hạng, đặc biệt nếu việc đánh giá khả năng được vay vốn của doanh nghiệp là sai nhưng Quan hệ KH vẫn cho rằng KH có khả năng trả nợ và điều chỉnh thông tin nhập vào hệ thống thì nó sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng đốiv ới ngân hàng

2.2.4.3. Những nguyên nhân chủ yếu:

Nguyên nhân khách quan:

- Độ tin cậy của nguồn thông tin: Như phân tích ở trên thì nguyên nhân của việc thông tin không chính xác suất phát từ lợi ích trái ngược giữa ngân hàng và KH, đồng thời vì những lợi ích cá nhân hoặc trình độ hạn chế của cán bộ tín dụng dẫn đến độ tin cậy của thông tin có thể bị giảm sút trong quá trình thu thập thông tin và nhập thông tin vào hệ thống chấm điểm. Nguồn thông tin về doanh nghiệp ngoài thị trường còn hạn chế, không có thông tin đảm bảo. Nguồn thông tin về xếp hạng còn rất ít, chủ yếu là nguồn thông tin về lịch sử vay nợ của KH được tra thông qua cổng thông tin của CIC Việt Nam. Công ty xếp hạng tín dụng Việt Nam CRV thì hầu như xếp hạng các doanh nghiệp quy mô lớn, thông tin về các doanh nghiệp vừa và nhỏ hầu như không có.

- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có hệ thống kế toán còn thiếu chuyên nghiệp và đúng quy chuẩn, dẫn đến viêc hạch toán còn sai sót thiếu chính xác.

- Kết quả tín dụng không phải là cơ sở mạnh để quyết định: Điều này là do độ tin cậy thông tin còn hạn chế dẫn đến kết quả đánh giả chưa phản ánh chính xác được thông tin KH, dẫn đến nó chưa trở thành một công cụ khoa học để quyết định việc có cho KH vay vốn hay không.

Nguyên nhân chủ quan:

- Xếp hạng định kỳ: Có hai nguyên nhân đó là do ngân hàng chưa có quy định về việc xử lý KH chậm nộp báo cáo tài chính và sự đốc thúc của cán bộ tín dụng đối với KH. Thứ hai đó là do hầu hết các doanh nghiệp quan hệ tín dụng với ngân hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, công tác kế toán còn yếu kém, sơ sài, đồng thời số năm hoạt động còn ít do đó việc thực hiện đúng công tác kế toán còn kém.

- Hệ thống giám sát của ngân hàng trong quá trình chấm điểm chưa chặt chẽ, còn nhiều lỗ hổng, dẫn đến ý nghĩa của việc xếp hạng bị giảm sút.

- Trình độ và năng lực nghề nghiệp của các CBTD thực hiện XHTD còn nhiều hạn chế. Đây là một yếu tố quan trọng nhằm tạo ra được nguồn thông tin đầu vào đáng tin cậy. Bởi họ là những người thu thập, xử lý thông tin đầu vào, nhằm đưa ra những thông tin chính xác và đầy đủ nhất cho việc xếp hạng. Các cán bộ tín dụng chưa thực sự chuyên tâm tìm tòi nghiên cứu về hoạt động của KH, còn nhiền đánh giá DN bằng cái nhìn chung chung, đại khái đặc biệt trong việc chấm điểm các chỉ tiêu phi tài chính.

2.3. Kiểm định việc XHTD doanh nghiệp của ngân hàng Quốc tế Việt Nam (VIB) – Chi nhánh Hoàn Kiếm bằng mô hình Logit

Dựa trên cơ sở lý thuyết được đưa ra ở chương I; cũng những phân tích về thực tiễn nghiên cứu, ứng dụng mô hình XHTD trên thế giới và thực trạng XHTD doanh nghiệp tại Việt Nam cũng như của chính ngân hàng Quốc tế - VIB. Từ đó, nảy sinh sự cần thiết phải bổ sung phương pháp XHTD doanh nghiệp, bởi những lý do sau:

Hệ thống XHTD doanh nghiệp hiện tại của ngân hàng Quốc tế - VIB có một số mặt hạn chế và những nguyên nhân tồn tại của nó. Việc nghiên cứu nhằm xây dựng một mô hình chấm điểm tín dụng nhằm hoàn thiện hơn, khắc phục những hạn chế, giải quyết những nguyên nhân, để nâng cao chất lượng của hệ thống XHTD doanh nghiệp của ngân hàng Quốc tế.

Hiện nay, đa số các hệ thống XHTD doanh nghiệp của các NHTM tại Việt Nam đều áp dụng phương pháp định tính, sử dụng mô hình chuẩn đoán và kỹ thuật áp dụng là kỹ thuật chấm điểm tín dụng. Việc xây dựng một mô hình thống kê là mang tính chiến lược của NH Quốc tế (VIB).

Việt Nam đang hướng tới hội nhập thì trường tài chính với các thị trường trong khu vực. Thực tế hiện nay, việc XHTD doanh nghiệp trên thế giới đã thay thế

mô hình chuẩn đoán đang được sử dụng hiện nay bằng mô hình thống kê hay lý thuyết. Việc phát triển mô hình mới là phù hợp với xu hướng hội nhập.

Từ những lý do trên thì việc ứng dụng một mô hình nhằm kiểm định lại việc XHTD là điều cần thiết và phù hợp với điều kiện kinh doanh của NH Quốc tế -VIB. Vì vậy, em đi xây dựng một mô hình nhằm xác định ảnh hưởng của các nhân tố đến xác suất trả nợ của doanh nghiệp đồng thời xác định được mức ảnh hưởng đó là bao nhiêu.

2.3.1. Lựa chọn mô hình

Lựa chọn mô hình cần phải dựa trên những yêu cầu đặt ra của mô hình đó:

Xác định xác suất trả được nợ: yêu cầu đặt ra đối với toàn hệ thống XHTD cá nhân của NH Quốc tế VIB trước hết là nhằm kiểm soát rủi ro tín dụng hiệu quả hơn khi kết quả xếp hạng phản ảnh được mức độ rủi ro của sản phẩm tín dụng, trên cơ sở đó giúp ra quyết định tín dụng chính xác. Kết quả xếp hạng KH phải tính đến những dự báo về nguy cơ vỡ nợ dẫn đến mất khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng.

Tính thống nhất bên trong: hệ thống XHTD doanh nghiệp sau điều chỉnh phải đảm bảo khả năng quản trị tín dụng thống nhất toàn hệ thống, đây là căn cứ để NH Quốc Tế - VIB có thể dự báo được tổn thất tín dụng theo từng nhóm KH, từ đó xây dựng chiến lược và chính sách tín dụng phù hợp; các chỉ tiêu chấm điểm XHTD trong mô hình phải đảm bảo không quá phức tạp và sát với thực tế để cán bộ nghiệp vụ tin tưởng sử dụng. Kết quả xếp hạng phải giống nhau tại mọi nơi trong hệ thống.

Tính thống nhất bên ngoài: xếp hạng không được mâu thuẫn với các lý thuyết và phương pháp được thừa nhận. Ngoài ra, hoàn thiện hệ thống XHTD cũng đặt ra mục tiêu phân loại nợ và trích dự phòng rủi ro theo Điều 7 của Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN đáp ứng yêu cầu của NHNN.

Tính khách quan: kết quả XHTD được đưa ra bởi những chủ thể khác nhau.

Sự công nhận: trong mắt của những người sử dụng, mô hình xếp hạng phải đánh giá được chính xác khả năng trả nợ của đối tượng được xếp hạng.

Tính phù hợp: Hoàn thiện hệ thống XHTD cũng đặt ra yêu cầu vừa phải phù hợp với thông lệ quốc tế nhưng không xa rời với điều kiện kinh doanh riêng biệt của NH Quốc Tế - VIB, vừa phải đảm bảo tính linh hoạt có thể điều chỉnh phù hợp với những biến động của điều kiện kinh doanh trong tương lai.

Với những yêu cầu nên trên, cùng với những nhận định về các mô hình toán học trong XHTD đã nêu ở chương I, em nhận định các biến đưa vào mô hình có cả biến định lượng và định tính, dẫn đến không áp dụng được mô hình phân tích phân biệt (DA). Bên cạnh đó, dữ liệu nghiên cứu cũng không đủ lớn để có thể áp dụng một cách tốt nhất các phương pháp lân cận gần nhất K và mạng nơron thần kinh (ANN). Vì vậy, trong nghiên cứu của mình, em đề xuất việc xây dựng mô hình XHTD KH doanh nghiệp dành cho NH Quốc Tế - VIB tiếp cận bằng phương pháp hồi quy Binary Logistic (mô hình Logit).

2.3.2. Lựa chọn biến số

Để áp dụng hồi quy Logit, trong quá trình xây dựng mô hình cần phải xác định biến nào là biến độc lập và biến phụ thuộc.

2.3.2.1. Biến phụ thuộc

Biến phục thuộc có nhiều phạm trù, mỗi phạm trù đại diện cho một nhóm và biến này có khả năng phân biệt tốt nhất và duy nhất trên cơ sở tập hợp biến độc lập được lựa chọn, nói cách khác là mỗi quan sát phải được sắp xếp vào một nhóm duy nhất.

Trong nghiên cứu này, biến phụ thuộc (Y) được lựa chọn như sau:

{ Yi=1 nếu KH có nợ đủ tiêu chuẩn Yi=0 nếu KH có nợ không đủ tiêu chuẩn

Theo mục a, khoản 1, Điều 6 quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 quy định về Nợ đủ tiêu chuẩn là nợ:

Các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đẩy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn.

Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại Khoản 2, điều 6 quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005.

2.3.2.2. Biến độc lập

Sau khi lựa chọn được biến phụ thuộc, bước tiếp theo phải xác định biến độc lập trong phân tích.Việc lựa chọn biến độc lập thường được tiến hành theo hai cách. Cách tiếp cận đầu tiên là dựa trên cơ sở và những nghiên cứu từ trước. Cách tiếp cận thứ hai là trực giác dựa trên cơ sở kiến thức của các chuyên gia và trực giác lựa chọn những biến chưa có những nghiên cứu trước và cơ sở lý thuyết hợp lý. Trong cả hai cách, những biến độc lập được lựa chọn là những biến số có ảnh hưởng đến khả năng


Giải thích về một số biến trong mô hình:

Biến X2 (Quy mô): X2 = 1 Doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ. Đây là những doanh nghiệp có tổ chức kinh doanh nhỏ, theo hình thức gia đình, được tổ chức một cách không chính thức, hoạt động không trọng yếu. Theo Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/06/2009 của Chính phủ quy định thì doanh nghiệp siêu nhỏ, ở cả ba khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản, công nghiệp và xây dựng, thương mại và dịch vụ, là doanh nghiệp có từ 10 lao động trở xuống.

phân biệt giữa các nhóm của biến phụ thuộc. Trong nghiên cứu này, biến độc lập được lựa chọn là:


Bảng 2.8: Bảng giả thiết về các biến sử dụng trong mô hình Logit

STT

Chỉ tiêu

KH

Thang đo

GT

1

Quy mô

X2

1: Siêu nhỏ - 0: Khác

-/+

2

BCTC được kiểm toán

X3

1: Có - 0: Không

+/-

3

Thanh toán hiện tại

X4

Tỷ số

+

4

Thanh toán nhanh

X5

Tỷ số

+

5

Thanh toán tức thời

X6

Tỷ số

+

6

Vòng quay VLĐ

X7

Số vòng quay

+

7

Vòng quay HTK

X8

Số vòng quay

+

8

Vòng quay KPThu

X9

Số vòng quay

+

9

Hiêu suất sử dụng TSCĐ

X10

Tỷ số

+

10

Nợ phải trả/Tổng tài sản

X11

Tỷ số

-

11

LNST/VCSH

X12

Tỷ số

+

12

LNST/TTS

X13

Tỷ số

+

13

Kinh nghiệp chủ doanh nghiệp

X14

Năm

+

14

Năm hoạt động của DN

X15

Năm

+

15

Số năm quan hệ TD vơi VIB

X16

Năm

+

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

Ứng dụng mô hình Logit nhằm nâng cao chất lượng xếp hạng tín dụng doanh nghiệp tại ngân hàng quốc tế chi nhánh Hoàn Kiếm - 9


Biến X3: BCTC được kiểm toán chấp nhận toàn phần là Báo cáo kiểm toán đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần được trình bày trong trường hợp kiểm toán viên và công ty kiểm toán cho rằng báo cáo tài chính phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán, và phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành (hoặc được chấp nhận). Ý kiến chấp nhận toàn phần cũng có hàm ý rằng tất cả các thay đổi về nguyên tắc kế toán và

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 17/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí