Cuộc Đời, Sự Nghiệp Và Sự Hình Thành Tư Tưởng Cải Cách Của Đặng Huy Trứ


một dân tộc giàu lòng nhân ái. Điều này thể hiện rất rõ qua thơ ca, tục ngữ Việt Nam như: “Bầu ơi thương lấy bí cùng; tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “Lá lành đùm lá rách”… Hay trong lịch sử dân tộc Nguyễn Trãi từng tha cho 10 vạn quân Minh, đóng thuyền, cấp ngựa, lương thực cho quân này về nước. Tiếp thu truyền thống nhân ái ấy của dân tộc trong suốt cuộc đời của mình, Đặng Huy Trứ đã thể hiện một tình yêu bao la đối với con người, từ cha mẹ, người thân đến những người lao động nghèo khổ, nhân dân bị áp bức bóc lột, đến những người quân sĩ. Chính bản sắc văn hóa sâu đậm, những nền tảng truyền thống quý báu của dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần để chống lại âm mưu đồng hóa của kẻ thù xâm lược. Những truyền thống quý báu đó đã được Đặng Huy Trứ nâng niu, nuôi dưỡng và phát triển, trở thành cơ sở, niềm tự hào, khắc sâu vào tâm trí, vun đắp trở thành hành động, triết lý sống là một trong những tiền đề quan trọng trong việc hình thành tư tưởng cải cách của ông.

Tư tưởng Đặng Huy Trứ là sự kế thừa các giá trị tư tưởng Nho giáo từ truyền thống gia đình, đây là tiền đề tư tưởng quan trọng nhất đối với sự hình thành tư tưởng của ông. Xuất thân từ gia đình nho giáo, Ông nội là Đặng Quang Tuấn (1752- 1825), một nhà Nho nổi tiếng suốt đời làm thầy dạy thành đạt ba người con đều thông hanh lời hay ý đẹp của người xưa để lại. “Truyền thống của gia đình đúng là: cha dạy con, anh bảo em, chú bác dìu dắt con cháu cùng nhau trau dồi đức hạnh và kiến thức”. Ta rõ điều này qua cuốn sách “ Đặng Dịch Trai ngôn hành lục” của Đặng Huy Trứ ghi lại những lời nói và việc làm của cha mình.”[21, tr.17]. Nên “từ năm 12 tuổi thì biết sơ cách ngắt câu khi đọc Ngũ kinh, Tứ truyện và Tam sử”, đến năm “14 tuổi đã thông hiểu thể văn tam trường”. Có thể thấy rằng chính vì xuất thân này nên tư tưởng của Đặng Huy Trứ ảnh hưởng sâu sắc nền tảng tư tưởng của Nho giáo. Về con người “quân tử” về đạo làm tôi trung, đạo làm con hiếu thảo, học theo các bậc thánh hiền Nghiêu, Thuấn. Phân biệt kẻ kiểu nhân và người quân tử Ông viết trong bài “Quân tử bất tố san” nghĩa là “Quân tử không ăn không”:

Sao kẻ tiểu nhân thích ăn không Để cho ngày tháng cứ trôi uổng?


...

Ta là ai? Chẳng gieo gặt,

Ăn của người, không chút công lao.[17, tr.169]

Ông chỉ ra rằng những kẻ tiểu nhân thường thích ngồi chức vị cao, thích người chức vị cao nhưng chỉ ăn không ngồi rồi vác cái xác đi qua lại uổng ngày đoạn tháng. Suốt ngày tính chuyện ăn của dân làm nông, ăn của người mà chẳng chút công lao gì với dân chúng. Người quân tử là người dũng cảm sửa sai lỗi lầm của mình.

Các tư tưởng về Đạo làm con hiếu Ông cho rằng đạo làm con phải làm “rạng rỡ” cho cha mẹ, phải sống sao không thổ thẹn khi cha mẹ đã về với đất. Hay trong bài “Lui lại ngày đi Quảng Đông gặp đúng ngày giỗ Thái Nghi Nhân” Ông viết:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.

Ở đâu cũng lòng thành lễ mọn

Đây Nhị Hà nghĩ tưởng Châu Giang Một ngày giỗ, suốt đời tang

Tư tưởng cải cách của Đặng Huy Trứ - 5

Sắp sang đất khách, chân con chưa dời. [17, tr.408]

Mỗi lần đi xứ, làm quan xa nhà là mỗi lòng ông trĩu nặng âu sầu vì thương cho mẹ lo cho cha đã già không ai chăm sóc. Cũng như thấy lỗi với đạo người mà tư tưởng Khổng giáo đã đề “Phụ mẫu tại bất viễn du”. Thế rồi vì thương nước lo dân, cái đạo tôi trung ông lên đường chăm lo cho dân chúng, đi xứ ắt chỉ mong cầu dân no ấm, bờ cõi đất nước được bình yên.

Nói về đạo làm tôi trung, người làm quân tử, đạo làm con hiếu ông còn viết viết khi Ông đi thi đỗ đạt thi cử, lúc lấy tự hiệu là Tĩnh Trai vào Năm Đinh Mùi khi đỗ đạt làm quan, ông muốn rời bỏ nơi “ mê muội” sống những ngày tu tỉnh.

Tư tưởng Đặng Huy Trứ chịu sự tác động của triết lý Phật giáo. Nhiều tựa đề tác phẩm của ông có chủ đề về Phật, chùa chiền, lòng bác ái, từ bi: “Chùa chiền, lăng tẩm Chiêm Sơn”, “Cáo Thần, Phật”, “Tượng Phật”, “Đến chùa bái Phật xin cạo đầu”. Ông nhận định rằng “tâm” của Phật là “từ bi” là cứu rỗi chúng sinh đến niết bàn an lạc. Không vướng bận, không đau buồn từ bỏ cái ác, cứu giúp loài người vượt qua khổ não.


“Thuyết nhân quả” gieo nhân nào gặp quả đấy, ta bà là cõi tạm trần gian. Lấy lòng nhân ái làm tâm của Phật. Đừng gieo nhân ác, lừa dối mọi người, bám víu vào Phật để nuôi béo mình, xuất gia đi tu. nấp sau cửa phật làm điều gian trá lừa gạt bao người khờ dại. Muốn chứng minh lòng thiện hãy đem lòng từ bi, nhân ái mà cứu giúp những người bên cạnh, Phật đạo xuất từ tâm chứ không phải nằm ở lễ Phật cúng bái. “Nhân tâm tức thị Phật. Phật tại tâm. Xin chớ ngờ gì tôi. Muốn chứng minh cái hay của đạo Bồ đề hay đem lòng nhân ái mà làm điều thiện. Chớ để bọn này mê hoặc mới tránh được bậc thức giả chê cười”. [17, tr.210]

Tư tưởng của Đặng Huy Trứ cũng chịu sự tác động của Đạo giáo mạnh mẽ.

Đó là tư tưởng hòa mình với thiên nhiên vạn vật. Con người được “dẫn” vào thiên nhiên được tự tay mình làm tất cả gắn bó ruộng vườn, gánh nước tưới tiêu, vui với hoa bầu bạn cùng trúc là quý báu.

Ông lão, rau xuân, một mảnh vườn Tự tay xách nước tưới chăm luôn. Thay mưa móc, thấm đều cành gốc, Dốc lực tâm vào sớm lẫn hôm.

Vui với hoa bầu cùng trúc bạn, [17, tr.77]

Thuận mình theo thiên lý tuần hoàn của đạo, mọi sự tùy duyên đến đi theo cái lẽ của trời đất càn khôn. Con người sống là hư không, chết cũng về hư không liêm khiết giữ mình trong sạch với bản thân, với dân chúng, vạn vật, mọi sự ắt hẳn “vô vi” có có lại không, lòng người như là nước vừa đục lại vừa tròn, cứ xoay chuyển tạo dời biến đổi theo vòng lặp luẩn quẩn:

Nước có trong trong, đục đục trong Lòng người như nước, đục và trong.

...

Nước, lòng, lòng, nước trong trong đục,

Gạn đục khơi trong, đục đục trong. [17, tr.469]

Sự ảnh hưởng Tân Thư trong tư tưởng cải cách Đặng Huy Trứ sâu sắc nhất là tư tưởng tự cường, tự trị, giải phóng dân tộc bằng con đường tự cường, tự trị. Đến


khi Trung Quốc đã bị đế quốc xâu xé thì tư tưởng canh tân đổi mới ở Trung Quốc đã là một làn sóng mạnh mẽ, họ ăn mặc kiểu Tây, hút thuốc phiện của Tây và cắt cả sam tóc truyền thống của mình. Tư tưởng trong Tân Thư được viết bằng chữ Hán và được truyền về nước. Lần này những cái mới mẻ được Tân Thư ghi chép lại đã làm cho triều đình nhà Nguyễn mở mang tầm mắt về văn minh Phương Tây. Cũng trong Tân Thư hàng loạt tư tưởng canh tân đất nước cũng được cái văn võ sĩ phu chiêm nghiệm và học hỏi. Trong đó có các sĩ phu yêu nước tiếp thu mạnh mẽ luồng gió mới này như: Đặng Huy Trứ ,Nguyễn Trường Tộ, Phạm Phú Thứ, Trần Đình Túc, Nguyễn Lộ Trạch. Tất cả những tư tưởng tự cường, tự trị canh tân đất nước hầu hết được viết bằng tiếng nước ngoài và tiếng Quảng Châu nên nên Đặng Huy Trứ phải ghi chép lại, tấu trình với vua trước triều đình với tinh thần Cái gì dùng được thì dùng. Trải qua hàng loạt biến động trong nước dưới sự lụi tàn của triều Nguyễn, cũng như nhiều lần mở mang đi sứ, thì tư tưởng tự lực, tự cường, tự trị trong Tân Thư như đã nhóm lên ngọn lửa con đường cứu dân, cứu nước giải phóng dân tộc trong Đặng Huy Trứ.

Tư tưởng cải cách đất nước trên lập trường tự cường tự trị được xem là trào lưu điển hình trọng yếu nhất, được các nước đề ra thực hiện và là con đường tốt nhất để giúp các quốc gia phương Đông tránh khỏi sự xâm lược của thực dân Phương Tây.

Nhận định của Đặng Huy Trứ về con đường cải cách đất nước ví như là một liều thuốc hữu hiệu “chữa căn bệnh” bế tắc con đường giải phóng dân tộc: “quả thật trước đây, tôi không tính toán được như vầy, chỉ tính việc nhỏ nhặt đã cho là tận tâm với phần việc của mình”. [17, tr.438] Chính những nhận định như thế có thể nói Tân Thư có sức ảnh hưởng sâu sắc góp phần tạo cơ sở tiền đề cho sự hình thành tư tưởng cải cách của Đặng Huy Trứ.


1.3.2. Cuộc Đời, Sự Nghiệp Và Sự Hình Thành Tư Tưởng Cải Cách Của Đặng Huy Trứ

1.3.2.1 Cuộc đời và sự nghiệp của Đặng Huy Trứ

Đặng Huy Trứ sinh 1825 trong gia đình có nhiều đời Nho học và nhận được sự ân sủng của nhiều đời vua Nguyễn.

Năm 1843, khi ông 18 tuổi ông đã thi đỗ cử nhân. Năm 1847, Ông đi thi Hội, thi Đình được đỗ cả tiến sĩ, nhưng vi phạm húy ông đã bị tước cả cử nhân có tư cách tiến sỹ, bị phạt 100 roi và cấm thi trọn đời. Sau này ông dạy dỗ được nhiều con em của các quan lại trong Triều đỗ đạt, các quan lại đã tâu xin cùng vua Nguyễn để Ông được tư cách thi cử. Ông đã thi đỗ đạt và làm quan.

Năm 1856, năm ông 31 tuổi, ông được cử đi kiểm tra tàu thuyền, trong khi Giặc chưa kịp nổ súng xâm lăng thì Ông đã nêu rõ thái độ chủ chiến để chống giặc trong bài “Vãng quân thứ Đà Nẵng tức sự”.

Năm 1857- 1862, ông lần lượt giữ các chức quan ở tỉnh huyện và làm việc ở Nội các, với chức vụ Ngự sử.

Năm 1865, Ông được cử làm Bố Chánh ở Quảng Nam nhận trách nhiệm cứu đói cho dân. Cũng cùng năm này Ông nhận nhiệm vụ lên đường sang Trung Quốc thám thính dương tình. Cũng trong dịp này mà ông đã tận mắt chứng kiến sự phát triển của khoa học kĩ thuật hiện đại của Tây phương khi nó vào Trung Hoa, Ông đã ngạc nhiên và viết tài liệu về việc đóng tàu chạy bằng hơi nước. Có thể khẳng định rằng Ông là người đầu tiên khai hóa đem kỹ thuật đóng tàu của Đông Dương về Việt Nam.

Năm 1866 ông được cử làm biện lý Bộ Hộ, nhân cơ hội này Ông đã xin thành lập Ty Bình Chuẩn ở Hà Nội lo cho việc lưu thông hàng hóa, kinh doanh gây dựng tài chính cho quốc gia.

Năm 1867, Ông được cử làm Bố tránh Nam Định, do không nhịn được nổi trước nạn tham nhũng nên ông đã nhiều lần chống trả và bị cách chức và điều đi thứ Bắc Ninh. Cũng trong năm này Ông lại được cử sang Quảng Châu, lại còn lập thành tích khi mua về được 239 khẩu đại pháo gửi về phục vụ cho quân sự nước nhà.


Nhân dịp này ông đã viết bài “Trong khi ốm được Dã Trì chủ nhân chỉ giáo” nêu rõ tinh thần tự cường đất nước, cải cách đất nước để cứu dân tình, quốc gia. Ngoài ra ông còn viết một số tác phẩm khác để trình bày về tư tưởng cải cách và mua tân thư, binh thư, máy móc, vật liệu chụp ảnh để đem về nước.

1868, khi 6 tỉnh Nam kì đã rơi vào tay Pháp, ông ở lại miền Bắc thực hiện công tác quân sự. Viết binh thư và kinh doanh. Về sau kinh doanh gặp khó khăn và cấm đoán của vua quan triều Nguyễn nên đóng cửa.

1873, ông theo quân đội của Hoàng kế viêm đánh dẹp biên giới. Khi quân của Hoàng kế viêm rút về Đồn Vàng để chống Pháp. Tại đây ông lâm trọng bệnh và sống những ngày cuối đời trong day dứt Ông viết: “Phong trần không nhuốm thế là tiên rồi. Đã giữ lòng chính đính và tốt, sao lại buồn thần tuổi già”. Ông từ trần ngày 7-8-1874. Tự Đức ngờ là ông “lập mưu khác”, ra chiếu vụ có đoạn: “hơi có học vấn một chút, cũng không phải là vô dụng, gia ân cấp cho 100 quan tiền; lại chuẩn cho quan tỉnh ấy (Hà Nội) đưa linh cữu về chôn cất ở nguyên quán”. Bắt đem thi hài ông về Huế, còn cho người mở nắp quan tài ra xem là ông có chết thật hay không. Mộ phần của Ông hiện đang chôn cất ở huyện Hương Điền thuộc tỉnh Thừa Thiên. (Theo kết quả nghiên cứu của Gs. Lê Sỹ Thắng )[23, tr. 334]

1885, cháu của Đặng Huy Trứ là Đặng Huy Phổ đem quân đánh kinh thành Huế lúc quân Pháp đang chiếm đóng kinh thành. Cuộc khởi nghĩa thất bại, Đặng Huy Phổ bị xử tử và giặc Pháp đã đốt hết thư viện nhà họ Đặng. Rất nhiều tác phẩm của Đặng Huy Trứ đã chôn vùi với lửa nhưng tư tưởng của Ông đã được truyền tụng trong nhân dân.

1.3.2.2 Sự hình thành tư tưởng cải cách của Đặng Huy Trứ

Theo công trình nghiên cứu của PGS.TS Cao Xuân Long thì sự hình thành tư tưởng của Đặng Huy trứ được phân chia theo hai giai đoạn, căn cứ vào nội dung, quan điểm của các tác phẩm đánh giá sự biến đổi trong tư tưởng của Ông:

Giai đoạn thứ nhất - Trước khi thực dân Pháp Xâm lược (từ năm 1858 về

trước).


“Chủ đề tiêu biểu, xuyên suốt trong các tác phẩm của Đặng Huy Trứ ở giai đoạn này là tình yêu quê hương, đất nước trên nền tảng của hệ tư tưởng Nho giáo.”[18, tr 67] Giai đoạn này thể hiện tập trung tư tưởng ở các nội dung:

Thứ nhất, tự hào về các cảnh đẹp của quê hương đất nước và truyền thống quý báu của dân tộc. Bằng thơ ca Đặng Huy Trứ đã vẽ lại bức tranh quê hương xứ sở trong thanh bình, gần gũi, mộc mạc mà êm đềm trong những năm tháng mà thực dân Pháp chưa tiến đánh: con trâu, con cá, bến nước, ánh trăng khuya...

Thứ hai, tư tưởng yêu thương con người, dân tộc, đồng cảm, thấu hiểu nỗi vất vả của người lao động. Như các tác phẩm: “Ông già đan đồ trẻ”, “Thợ cày vực nghé”, “ người đàn bà chăn tằm”, “Bà vú nuôi tre”,..

Thứ ba, phê phán những hủ tục mê tín dị đoan, những thói hư tật xấu của nhân dân, khi đất nước còn yếu kém thì lại sà đà trông chờ vào những đấng siêu nhiên ma mị, suy đồi. Tư tưởng này được ông thể hiện rõ ràng và thẳng thắng trong 2 bài Hịch được viết năm 1857: “Hịch hủy miếu thờ nhảm”, “Hịch cấm đền thờ nhảm”.

Bọn tà ma ấy Gần lỵ sở ta!

Hồn nương miếu nát, luôn gây họa cho con trẻ đàn bà, Giấu cõi trần, chuyển thành tai cho lũ người ngu xuẫn. Có vài hào lợi nhỏ nhoi,

Đều trút vào lọ hương hỏa. Đâu từng cứu nước giúp dân?

Chỉ luống nhiễu người hại vật [17, tr.156]

Giai đoạn hai- Từ khi thực dân Pháp Xâm lược nước ta (từ năm 1858 về

sau).

Chủ đề xuyên suốt của giai đoạn này vẫn là tinh thần yêu nước. Tình yêu quê

hương đất nước nồng nàn thể hiện qua sự căm thù quân giặc sâu sắc, cũng như là sự suy tư con đường nào cho dân tộc thoát khỏi giặc man di đang ngày đêm lăm le bờ cõi. Trong bài viết “Đi quân thứ Đà Nẵng, ghi lại” Ông viết:


Một vùng Đà nẵng rợ tây Dương Giữ nước, quân dân mệt lạ thường. Cuối tiết tàn thu cơn lũ lụt,

Muôn nhà thiếu bữa cảnh thê lương. Diệt thù, sương gió thương quân sĩ, Lo nước, đêm ngày bận đế vương.

Ăn lộc, ví cùng lo việc nước,

Tính sao? Hòa, chiến, giữ hay nhường? [13, tr.151]

Cũng trong chính giai đoạn này điều kiện lịch sử đã tạo ra các tiền đề cho phép Đặng Huy Trứ hình thành tư tưởng cải cải mạnh mẽ. Nếu giai đoạn trước tinh thần yêu nước ấy thể hiện sâu sắc qua việc miêu tả chân thực hiện thực bức tranh quê hương, người lao động và phê phán các thói hư tật xấu hủ tục trong truyền thống văn hóa, thì nay tư tưởng của Đặng Huy Trứ là yêu quê hương nên tìm kiếm đường lối bảo vệ đất nước bằng chiến đấu chống kẻ thù bằng tư tưởng tự lực tự cường, áp dụng thành tựu của khoa học kĩ thuật. Lúc làm quan thì kiên quyết chống tệ nạn tham nhũng, bòn rút xương máu nhân dân như “Nguyên tắc chủ yếu của việc không nhận và nhận biếu”, “Quân tử không ăn không”, “Sắp làm sớ tố giác”, “Cáo thần, phật”, “Sung làm Phó Đổng Lý Thanh tra Vũ Khố”. Lúc đi xứ thì hứng thú, tìm tòi cái hay cái phát triển của văn minh Tây phương mà mang về nước, hết lòng trung thành tâu xin, bàn luận thực thi việc cải cách như: “mong tin vui sứ bộ đi tây”, “mong người hiền như khát nước”,“đi lĩnh chức Bố Chánh Quảng Nam”,“nước ta mới đóng chiếc tàu lớn chạy bằng hơi nước”, “khai trương công việc Bình Chuẩn”. Dù là giỗ cha, xa mẹ xa quê hương, hay lúc ốm đau bệnh tật cũng đều nhận trách nhiệm lên đường theo lệnh của triều Nguyễn.

Tiểu Kết Chương 1

Trong bối cảnh chủ nghĩa đế quốc bành trướng xâm chiếm thị trường thuộc địa trên thế giới thì nhiều quốc gia dân tộc phương Đông vì yếu thế trong sự phát triển khoa học kĩ thuật đã dễ dàng bị xâm lược. Việt Nam sau bao biến cố cũng thống nhất được nền tự trị của dân tộc nhưng từ khi vua Nguyễn Ánh lên ngôi sự

Xem tất cả 95 trang.

Ngày đăng: 19/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí