nước.
Thứ ba, tư tưởng tự lực, tự cường kinh tế, khoa học kĩ thuật để xây dựng đất
Thứ tư, tư tưởng trong quân sự để đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Chương 3: Giá trị tư tưởng cải cách của Đặng Huy Trứ ( gồm 3 tiết)
Luận văn sẽ tập trung khai thác các giá trị của tư tưởng cải cách của Đặng
Huy Trứ ở 3 góc độ:
Một là, các tư tưởng cải cách của Đặng Huy Trứ có tác động nhất định đến Triều đình nhà Nguyễn.
Có thể bạn quan tâm!
- Tư tưởng cải cách của Đặng Huy Trứ - 1
- Tư tưởng cải cách của Đặng Huy Trứ - 2
- Sự Hình Thành Tư Tưởng Cải Cách Của Đặng Huy Trứ
- Cuộc Đời, Sự Nghiệp Và Sự Hình Thành Tư Tưởng Cải Cách Của Đặng Huy Trứ
- Tư Tưởng Chính Trị - Xã Hội Tiến Bộ Của Đặng Huy Trứ
Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.
Hai là, tư tưởng cải cách của Đặng Huy Trứ có đóng góp hết sức to lớn đến dòng tư tưởng cải cách thế kỷ XIX và cả nửa đầu thế kỷ XX.
Ba là, từ việc khái quát các thành tựu đã đạt được trong 35 năm đổi mới đất nước, rút ra các vấn đề mà tư tưởng cải cách của Đặng Huy Trứ cho thấy đến tận nay vẫn còn nguyên vẹn giá trị.
Chương 1:
ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG CẢI CÁCH CỦA ĐẶNG HUY TRỨ
1.1. Bối cảnh thế giới nửa cuối thế kỷ XIX.
Vào cuối thế kỷ XIX tình hình thế giới có nhiều biến đổi trên diện rộng và ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả mọi mặt: kinh tế, chính trị, xã hội, khoa học kỹ thuật. Những biến đổi bắt đầu từ những thành tựu khoa học kỹ thuật làm kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các mặt chính trị, xã hội. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản tự do đã chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc làm thay đổi toàn diện xã hội Phương Tây. Sự bành trướng mở rộng xâm chiếm thị trường thuộc địa thế giới thay đổi trật tự thế giới và tất yếu ảnh hưởng đến tình hình Việt Nam cuối thế kỷ XIX.
Về kinh tế, từ khi chủ nghĩa tư bản hình thành đã tạo ra lực lượng sản xuất lớn. Trong quá trình lịch sử nhân loại có thể nói theo cách đánh giá của C.Mác và Ăng-ghen: “giai cấp tư sản đã đóng một vai trò hết sức cách mạng trong lịch sử”, “giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp trong vòng một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả thế hệ trước kia gộp lại”[19, tr. 599,603]. Việc nắm giữ trong tay lực lượng sản xuất tiên tiến đã làm cho của cải của nhân loại dư thừa ra, thúc đẩy sự trao đổi các giá trị hàng hóa. Tạo tiền đề cho sự chuyển biến sang chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Sự phát triển nhanh mạnh với khối lượng của cải khổng lồ của chủ nghĩa tư bản nhờ vào sự phát triển của khoa học kĩ thuật. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật không chỉ dừng lại ở những công trình nghiên cứu khám phá thế giới, mà nay đã áp dụng sâu rộng vào quá trình sản xuất.
Mở rộng thị trường và thu được lợi nhuận nhiều hơn khi sự phát triển tư bản ở các nước xã hội Phương Tây đã trở nên ngột ngạt thì các nước Anh, Pháp, Tây Ban Nha… đã tiến về phương Đông nhằm biến phương Đông thành cỗ máy trục lợi cho đế quốc. Điều đó đã làm cho xã hội phương Đông thay đổi sâu sắc về mọi mặt từ kinh tế đến chính trị-xã hội.
Đánh giá tình hình thế giới lúc này Đặng Huy Trứ cho rằng vào thời điểm hiện tại để thoát khỏi hiện thực khắc khổ của nhân dân Việt Nam cần: “Tự cường, tự trị, dần dần khôi phục” đó là thượng sách. [17, tr.435-436].
Về mặt xã hội, xã hội bị phân hóa rõ rệt giữa giàu nghèo. Trong thời kì này xã hội đã phân chia thành nhiều giai cấp. Ngoài giai cấp tư sản, địa chủ quý tộc, nông dân thì xuất hiện thêm giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân được sinh ra trực tiếp từ quá trình sản xuất tư bản ngày càng chiếm số lượng đông đảo, phải chịu sự bóc lột nặng nề của giải cấp tư sản, mâu thuẫn của giai cấp công nhân đối với giai cấp tư bản càng ngày càng không thể điều hòa.
Mâu thuẫn giai cấp quyết liệt dẫn đến hàng loạt cuộc đấu tranh giai cấp đã bùng nổ khắp nơi trên thế giới. Kết hợp với các phong trào đấu tranh là nhiều luồng tư tưởng đã được hình thành và phát triển, trong đó hệ tư tưởng Mác như là một ánh sáng chân lí đã được giai cấp công nhân tiến bộ giác ngộ và phát triển gắn liền với các cuộc đấu tranh thực hiện sứ mệnh vĩ đại của giai cấp công nhân, vì mục tiêu hướng về độc lập, tự do, bình đẳng, bác ái cho dân tộc mình.
Về chính trị, kinh tế chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến tầm cao mới, tác động mạnh mẽ đến chính trị thế giới. Cùng với quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa trong chính trị chế độ quân chủ càng ngày bị đánh mất đi quyền lực chính trị của mình. Đây là thời kì đánh dấu sự chuyển biến rõ nét từ chế độ quân chủ sang chế độ dân chủ. Quân chủ chuyển dần sang dân chủ, khoa học kỹ thuật thực nghiệm thay thế niềm tin tôn giáo. Nền dân chủ mà giai cấp tư sản xây dựng có giá trị văn hóa khi nó dùng để chống lại chế độ phong kiến cường quyền ở các nước tư bản, nhưng trong cuộc bành trướng của chủ nghĩa đế quốc đến các nước thuộc địa của thực dân thì dân chủ là không tồn tại.
Về khoa học kỹ thuật, sự phát triển của khoa học kĩ thuật thời kì này là vượt trội nhất so với các thời đại trước đó. Công trình nổi bật nhất của thế kỷ XIX phải nói đến là học thuyết tiến hóa của Đác uyn. Đây được xem như là một cuộc cách mạng trong ngành công nghệ sinh học và thậm chí ảnh hưởng sang đến khoa học xã hội. Nội dung căn bản của học thuyết đã làm rõ quy luật đấu tranh sinh tồn của các
loài. Vì phải tồn tại nên tất cả các loài phải biến hóa để thích nghi, nếu không tiến hóa thì sẽ bị tự nhiên đào thải.
Tiếp nối thành tựu vượt bậc trong lĩnh vực sinh học thì G. Men đen đã phát hiện tiến xa hơn về di truyền học và được gọi là cha đẻ của di truyền học hiện đại. Trong lĩnh vực y học Paxtơ cũng đã có phát minh quan trọng là thuốc Vacxin. Ngành hóa học Men-Đê-Lép đã lập nên bảng tuần hoàn hệ thống các nguyên tố hóa học. Trong lĩnh vực vật lý cũng có nhiều phát hiện, phát minh quan trọng; học thuyết tương đối của Anhxtanh, bóng đèn và nhà máy điện Edison, tia Rơnghen. Sự phát triển mà có tác động đến quá trình phát triển của tư bản cũng như hệ tư tưởng đó là những thành tựu trong lĩnh vực điện báo, sóng vô tuyến phát thanh truyền hình…
C.Mác đã từng viết về sự phát triển khoa học kĩ thuật trong nửa cuối thế kỷ XIX như sau: “sự chinh phục những lực lượng thiên nhiên bằng máy móc, việc áp dụng hóa học vào công nghiệp và nông nghiệp, việc dùng tàu chạy bằng hơi nước, đường sắt, máy điện báo, việc khai phá từng lục địa nguyên vẹn, việc khai thông các tàu bè đi lại được, hàng khối dân cư tựa hồ như từ dưới đất trồi lên, - có thể kỷ nào trước đây ngờ được rằng có những lực lượng sản xuất như thế vẫn nằm tiềm tàng trong lòng lực lượng xã hội!”. [19, tr. 603]
Chính Đặng Huy Trứ cũng đã ngỡ ngàng và tự nhận tài học của mình còn kém cỏi, thua thiệt: thiên văn, toán số không giỏi thì làm sao lo được cho nhân dân.Ông so sánh tài cán mình với Chim Ô Thước, chim Viên cơ chúng nó còn hay hơn cả mình khi có thể lắng nghe được thiên nhiên mà dời tổ. “Trải qua việc, mới biết tài học ta nông cạn. Văn chương có bao giờ chống được gió bão”. [17, tr. 271]
Từ đó ông nung nấu tư tưởng cần sang Phương Tây để học hỏi trau dồi những tri thức hiện đại của nhân loại. Trong tác phẩm Đề bức ảnh mặc triều phục ông cũng đã bình phẩm về sự hiện đại của chiếc máy ảnh đến từ văn minh Phương Tây và thổ lộ cái lòng tôi trung sâu xa của mình“Nhưng cái lo, cái nhục của lòng người bề tôi là quyết tiêu diệt giặc. Một điểm trong tim tôi, anh có biết không? Muốn sang Tây vực để vẽ bức tranh toàn cảnh”. [17, tr. 343]
Về văn học- nghệ thuật, nội dung các tác phẩm văn học hiện tại thường miêu tả sự tác động của cuộc cách mạng tư sản và quá trình quá trình công nghiệp hóa. Nhờ sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học kĩ thuật mà các tác phẩm được in ấn với số lượng lớn hơn và truyền đi nhanh lan rộng mạnh mẽ, góp phần nâng cao tri thức nhân loại và tình hình thế giới. Các thể loại văn học nghệ thuật cũng đa dạng phong phú hơn: tạp chí, nhật báo, luận cổ điển đến tiểu thuyết hiện đại.
Về mặt tư tưởng, sự phát triển của khoa học kĩ thuật cũng như hiện thực xã hội trong nền kinh tế tư bản đã làm xuất hiện sôi nổi các trào lưu tư tưởng. Trong đó đáng đề cập đến là phong trào khai sáng Pháp với các đại biểu Thomas Paine, Voltaire, Jean-Jacques Rousseau, Immanuel Kant và David Hume với tư tưởng tấn công vào cái niềm tin tôn giáo đã mục rỗng và lỗi thời. Nội dung tư tưởng ở thời kì này thường là tư tưởng về hiện thực xã hội, không chỉ thế các nhà tư tưởng đề ra cả những phương pháp cải tạo xã hội hiện thực ấy phải kể đến như: “Thuyết Mantut” về qui luật phát triển dân số nhân loại, “thuyết Trực giác” về nhận thức thế giới không cần thông qua thần linh hay tri thức khoa học mà thông qua “ linh tính”; “ thuyết hành vi Páp lốp” về quy luật của hành động là một khoa học... Không những thế những câu hỏi bâng khuâng, trăn trở làm thế nào để giải phóng dân tộc, con đường nào cho lối đi đất nước đã được suy tư rất nhiều ở các nước bị xâm lược như phương Đông.
Ở Nhật Bản, triều đình Mạc phủ thi hành chính sách “ tỏa quốc” nhằm ngăn chặn sự xâm nhập của chủ nghĩa đế quốc. Chính sách cấm đoán người truyền đạo Thiên chúa giáo và người nước ngoài vào Nhật để buôn bán. Điều này làm cho tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội suy kiệt dần. Đất nước Nhật Bản đứng trước nguy cơ bị xâm lược bởi các nước thực dân lớn mạnh: Bồ Đào Nha, Hà Lan, Mỹ, Anh... Ngày càng nhiều phong trào trong nước muốn Duy Tân đất nước, lật đổ triều Mạc đi theo con đường âu hóa, thống nhất quốc gia và tôn vua trở lại địa vị tối cao có thực quyền bằng khẩu hiệu: “tôn quân, diệt di, phản Mạc” [15, tr.143]. Năm 1868 Thiên Hoàng Minh Trị Mutsuhito lên ngôi dời đô Từ Kyoto về Edo, phế bỏ chế độ lãnh chúa và võ sĩ, các lãnh chúa Đai-mi-ô và các võ sĩ Samurai về làm
thường dân. Thiên hoàng lãnh đạo phong trào Duy tân, thâu tóm tập trung quyền lực, phát triển giáo dục, mời các nhà khoa học về nước dạy, hoặc đưa người sang Tây du học... “Trong thời gian rất ngắn, ba chục năm. Các sĩ phu đều hăng hái học tập Phương Tây, dịch sách Âu mỹ, nghiên cứu chính thể kỹ nghệ. Chính phủ đón thầy Âu dạy học cho dân: Kỹ sư Anh dạy cách cất đường xe lửa và đóng tàu, người Pháp dạy về luật và binh bị, giáo sư Đức dạy về y học và hóa học, nhà chuyên môn Hoa Kỳ tổ chức giáo dục, các nghị sĩ Ý thì dạy âm nhạc và điêu khắc”. [15, tr.143]
Đánh giá về con đường canh tân đất nước của Nhật bản Đặng Huy Trứ rất hào hứng: “Nước Nhật Bản ở biển Đông là nước nhỏ không đáng kể cũng vì biết căm phẫn mà trở thành hùng cường” [17, tr. 437-438]. Đó là bài học bổ ích, một sự hy vọng dẫn đường cho con đường giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi tình thế xâm lăng mạnh mẽ của thực dân.
Ở Trung quốc, cuối đại Mãn Thanh Trung Quốc bị các nước thực dân dòm ngó xâu xé. Về kinh tế, Trung Quốc dần rơi vào tình trạng lạc hậu, bị tư bản nước ngoài thao túng với hàng loạt chính sách khai thác thuộc địa, phát triển mạnh mẽ số lượng xí nghiệp hầm mỏ, nhằm vơ vét tài nguyên khoáng sản đưa về chính quốc. Trong cùng lúc đó thì nền nông nghiệp phong kiến lạc hậu vẫn được duy trì, thủ công nghiệp truyền thống phát triển nhưng bị chèn ép trên thị trường kinh tế rồi què quặt rơi vào sự lệ thuộc mà phục vụ cho thực dân. Về chính trị: triều đình phong kiến vẫn khư khư mang tư tưởng bảo thủ, lỗi thời, lạc hậu coi Trung Quốc là trung tâm của thế giới, khiến nhân dân rơi vào cảnh khổ “một cổ hai tròng”. Với hiện thực trên, các nhà yêu nước đã đứng lên bằng nhiều phong trào đấu tranh, bằng nhiều con đường và cách thức khác nhau: Phong trào thái bình thiên quốc của Hồng Tú Toàn (phong trào nông dân). Tiếp đến là cuộc chính biến 100 ngày “biến Pháp” của Khang Hữu Vi. Nội dung các phong trào Duy Tân ở Trung Quốc tập trung chủ yếu vào sự phát triển khoa học kĩ thuật, đề cao dân chủ phế bỏ quan lại, nhất thiết phải cải cách phát triển giáo dục. Các phong trào Duy Tân cải cách ở thời kì này đã đóng vai trò dẫn dắt đấu tranh bài trừ chế độ phong kiến cũ nát, thổi một luồng sinh khí mới về tư tưởng vào trong đời sống xã hội của Trung Quốc.
Đặng Huy Trứ đã nhận xét về các phong trào Duy Tân và ý nghĩa của những phong trào này của Trung Quốc ở thời điểm cuộc chiến chống thực dân xâm lăng của Việt Nam đang hết sức gay gắt rằng: “Bọn quỷ trắng đâu chịu nghe những lời thiện, mà ta cũng đâu thể để mất nhân dân và đất đai được. Trong triều không thiếu những vị quan to, áo xanh, áo tía, thực là một sự giúp dân lớn, ấy là chưa kể đến văn thân của ba tỉnh thì chưa biết được”. [17, tr. 390]. Trước những thành tựu to lớn của Nhật Bản Duy Tân và những trắc trở của Trung Quốc trên con đường Duy Tân, Đặng Huy Trứ cũng trăn trở tìm kiếm con đường nào, cách thức nào, mô hình nào mới là phù hợp với thực tiễn đấu tranh cho Việt Nam. Ông băn khoăn phải đi theo nước nào, hay học hỏi, gửi gắm niềm tin vào đâu để đánh đuổi giặc xâm lăng đem về sự ấm no cho dân tộc.
Tóm lại, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trên thế giới đã biến chuyển hình thái từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang tư bản độc quyền với 5 đặc trưng cơ bản: Một là, hình thành các tổ chức lũng đoạn kinh tế xuyên quốc gia; Hai là, tư bản tài chính được hình thành dựa trên sự kết hợp của tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp; Ba là, xuất khẩu tư bản là vấn đề sống còn trong nền kinh tế tư bản; Bốn là, hình thành các khối liên minh tư bản độc quyền tự ý phân chia tranh giành thị trường thế giới; Năm là, việc phân chia đất đai trên thế giới căn bản đã được hoàn thành.
Sự biến chuyển này dẫn tới sự phát triển nhanh chóng của chủ nghĩa đế quốc đã làm cho thế giới thay đổi các trật tự trước đó. Phần lớn các nước phương Đông, các nước kém phát triển ở Châu Phi, Mỹ Latinh bị xâm chiếm thành thuộc địa của các nước đế quốc như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha...
Với việc bắt tay thực hiện các cuộc khai thác thuộc địa bóc lột giai cấp của các nước chủ nghĩa đế quốc với các nước thực dân đã làm cho mâu thuẫn chính trị, xã hội ngày càng gay gắt. Các phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thực dân diễn ra sôi nổi, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản càng sâu rộng, cùng theo đó là sự phát triển của những phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa phong kiến lạc hậu lỗi thời ở khắp nơi trên thế giới. Đi đầu là các phong trào canh
tân, cải cách tự lực, tự cường, tự trị ở Nhật Bản, Trung Quốc, Ba Tư, Cao Ly... và Việt Nam.
Chính hiện thực xã hội, tình hình thế giới như thế đã tác động định hướng các nhà yêu nước ở Việt Nam tiếp nhận và suy tư. Trong đó tư tưởng cải cách của Đặng Huy Trứ được đánh giá là tiến bộ một bậc khi các tư tưởng ấy được Ông thực thi hóa vào đời sống kinh tế, xã hội, quân sự…
1.2. Bối cảnh Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX.
Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX là một trong những điều kiện hết sức quan trọng cho sự hình thành, phát triển tư tưởng cải cách của Đặng Huy Trứ.
Vào thế kỷ XIX, xã hội Việt Nam có nhiều biến động to lớn. Đặc biệt, từ khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta (1858), vận mệnh đất nước bị đe dọa làm cho đời sống nhân dân vốn đã khổ cực, lầm than nay càng thêm bế tắc. Xã hội ngày càng đứng trước nguy cơ bị khủng hoảng. Theo GS. Trần Văn Giàu: “Đất nước và dân tộc Việt Nam đứng trước hai nhiệm vụ lịch sử rất trọng đại, rất khẩn cấp: Một là nhiệm vụ Duy Tân, nghĩa là từ bỏ sự đình trệ phong kiến Châu Á để phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa như Âu Mỹ; hai là bảo vệ nền độc lập dân tộc chống thực dân xâm lược; hai nhiệm vụ liên quan mật thiết với nhau” [8, tr.54]. Trước những đòi hỏi của lịch sử, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa - xã hội, tư tưởng đều đặt ra yêu cầu phải cải cách, đổi mới. Về kinh tế, nước ta là một nước có nền kinh tế lạc hậu, phát triển nông nghiệp là chủ yếu. Đến thế kỷ XIX, dưới triều Nguyễn, nông nghiệp càng được đề cao bởi chính sách “Trọng nông ức thương” do nhà nước ban hành. Triều đình chú trọng đến việc khai hoang, mở rộng diện tích canh tác bằng nhiều chủ trương khác nhau như: cho tư nhân tự do tổ chức việc khai hoang, hoặc làng xã đứng ra tổ chức, hoặc thiết lập đồn điền hoặc dinh điền. Đến năm 1847 tổng diện tích đất nông nghiệp tăng lên 4.278.013 mẫu (so với năm 1836 tăng 214.119 mẫu). Riêng ở Nam Định, qua mấy đợt chính phủ tổ chức khai hoang các nơi đất sa bồi, đến năm 1864 vẫn còn khoảng 30.000 mẫu bị bỏ hoang. Ở Nam phần, những vùng đất hoang còn rất rộng, vào năm 1870, diện tích đất khai phá mới