độ nào trong thực hiện các nhiệm vụ của hoạt động giảng dạy. Tự đánh giá năng lực giảng dạy luôn gắn với quá trình hoạt động và được hình thành, biểu hiện, nâng cao trong hoạt động, đồng thời gắn với từng nhiệm vụ cụ thể trong hoạt động giảng dạy của giảng viên.
Để đo lường tự đánh giá năng năng lực giảng dạy của giảng viên các nhà trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, cần dựa trên tự đánh giá (nhận thức, tin tưởng) về việc thực hiện các nhiệm vụ của giảng viên, hay nói cách khác, đó là mức độ các biểu hiện tự đánh giá năng lực thực hiện mục đích, yêu cầu giảng dạy; tự đánh giá năng lực thu hút học viên, tự đánh giá năng lực quản lý lớp học.
Tự đánh giá năng lực giảng dạy khác với tự đánh giá năng lực nói chung của giảng viên. Tự đánh giá năng lực giảng dạy chỉ là một mặt về hoạt động dạy của giảng viên. Tự đánh giá năng lực giảng viên thể hiện sự tự đánh giá mang tính tổng thể trên các mặt công tác của người giảng viên bao gồm: giảng dạy, giáo dục, nghiên cứu khoa học và tổ chức các hoạt động độc lập cho người học. Do vậy, để đo tự đánh giá năng lực chung cho giảng viên các trường sĩ quan, cần có tự đánh giá trên các mặt hoạt động, công tác đó. Tuy nhiên, tự đánh giá năng lực giảng dạy được coi là một mặt, đồng thời là một mặt quan trọng nhất trong tự đánh giá năng lực giảng viên. Bởi lẽ, với giảng viên, những kết quả đạt được về nghiên cứu khoa học, giáo dục hay tổ chức các hoạt động độc lập cho người học đều hướng tới mục tiêu cuối cùng là để giúp người giảng
viên giảng dạy ngày càng tốt hơn, hiệu quả cao hơn, giúp cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo con người ở mỗi một nhà trường ngày càng được nâng cao hơn, hoàn thiện hơn. Do đó, bản thân người giảng viên ở trình độ nào, công tác bao lâu, giảng dạy môn học nào, thì kết quả quan trọng nhất, đánh giá năng lực người giảng viên, vẫn là kết quả hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy. Đây cũng là tiêu chí quan trọng nhất đánh giá chất lượng cán bộ hàng năm của giảng viên các
trường sĩ quan nói riêng và các trường trong Quân đội nói chung.
Tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên trong các trường sĩ quan khác với tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên các học viện, trường đại học, cao đẳng bên ngoài nói chung. Sự khác biệt này, thể hiện rõ ở nội dung từng biểu hiện tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên, đó tự đánh giá năng lực thực hiện mục đích, yêu cầu giảng dạy; tự đánh giá năng lực thu hút học viên, đặc biệt được thể hiện rõ tự đánh giá năng lực quản lý lớp học. Tại sao lại có sự khác biệt này, đó chính là do sự khác nhau về mục tiêu đào tạo cho cán bộ, môi trường hoạt động, về những khác biệt của tính chất đặc thù hoạt động giảng dạy trong nhà trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên các trường sĩ quan có nhiều điểm tương đồng với tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên các học viện trong quân đội, do cùng hoạt động giảng dạy trong môi trường văn hóa sư phạm quân sự, cùng chịu sự tác động, quy định bởi kỷ luật quân đội, những đặc thù của hoạt động sư phạm, hoạt động giảng dạy trong quân đội. Tuy nhiên, giảng viên các trường sĩ quan lại có sự khác biệt về đối tượng học viên, về mục đích giảng dạy là trang bị kiến thức, hình thành kỹ xảo, kỹ năng
mang tính cơ bản, ban đầu cho học viên đào tạo cấp phân đội các chuyên
Có thể bạn quan tâm!
- Lý Luận Về Tự Đánh Giá Năng Lực Giảng Dạy Của Giảng Viên Ở Các Trường Sĩ Quan Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
- Tự đánh giá năng lực của giảng viên ở các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam - 8
- Khái Niệm Năng Lực Giảng Dạy Của Giảng Viên Các Trường Sĩ Quan Quân Đội Nhân Dân Việt Nam
- Sơ Đồ Các Mặt Biểu Hiện Tự Đánh Giá Năng Lực Giảng Dạy Của Giảng Viên
- Các Trạng Thái Cơ Thể Và Cảm Xúc Của Giảng Viên
- Sơ Đồ Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Tự Đánh Giá Năng Lực Giảng Dạy Của Giảng Viên
Xem toàn bộ 272 trang tài liệu này.
ngành, chính điều này sẽ tạo ra sự khác biệt trong nội dung về tự đánh giá năng lực của giảng viên các trường sĩ quan với tự đánh giá năng lực của giảng viên các học viện trong quân đội.
Tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên các trường sĩ quan không mang tính bất biến mà luôn có sự thay đổi tùy theo tính chất nhiệm vụ, bài giảng, thậm chí theo thời điểm, trạng thái cơ thể và cảm xúc của giảng viên.
Tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, cụ thể: sự trải nghiệm trong hoạt động giảng dạy của
giảng viên; sự học hỏi kinh nghiệm những người xung quanh; sự đánh giá của lãnh đạo chỉ huy các cấp, của các giảng viên khác và ý kiến phản hồi của học viên; các trạng thái cơ thể, cảm xúc của giảng viên; cảm nhận sự hạnh phúc; sự hài lòng và sự lạc quan trong công việc của giảng viên
2.2.5. Biểu hiện tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên ở các trường sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam
Trong tâm lý học hiện nay, nghiên cứu về tự đánh giá năng lực có những
cách tiếp cận khác nhau, tùy vào đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu. Nếu là nghiên cứu về tự đánh giá năng lực nói chung, các tác giả thường đi theo hướng khai thác các khía cạnh: tự đánh giá về năng lực nhận thức, tự đánh giá về năng lực cảm xúc và hành vi, tự đánh giá về năng lực xã hội (Bandura, 1977) [69]. Tuy nhiên, những nghiên cứu về tự đánh giá năng lực ở những ngành nghề cụ thể thì thường gắn với tính hiệu quả khi thực hiện các nhiệm vụ của từng cá nhân trong hoạt động để đưa ra các biểu hiện nhằm đo lường và lượng hóa, đặt các tiêu chí của tự đánh giá năng lực cho mỗi một ngành nghề.
Trong luận án này, tác giả quan niệm, tự đánh giá năng lực giảng dạy là nhận thức, tin tưởng về hiệu quả có thể đạt được khi thực hiện các nhiệm vụ, được thể hiện thông qua các chỉ báo tự đánh giá về hiệu quả có thể đạt được khi thực hiện các nhiệm vụ giảng dạy. Đồng thời đi sâu làm rõ các chỉ báo biểu hiện tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên ở các nhà trường sĩ quan. Điều này dựa trên cơ sở lý luận sau:
Tschannen và W, Hoy (2001) cho rằng: Tự đánh giá năng lực thực hiện mục đích, yêu cầu giảng dạy; tự đánh giá năng lực quản lý lớp học; tự đánh giá năng lực thu hút sinh viên [131]. Chỉ với ba mặt biểu hiện, nhưng Tschannen và
W. Hoy đã nêu được khái quát, đầy đủ về tự đánh giá những nhiệm vụ của người giảng viên trong giảng dạy. Quan điểm này đã trở nên rất phổ biến,
được nhiều nhà nghiên cứu lấy làm căn cứ để đo lường tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên như Klassen (2009) [96], Franziska (2016) [83],
Morris (2010) [104]…
Bandura (2005), đề cập đến những khía cạnh của tự đánh giá năng lực giảng dạy người giáo viên bao gồm: Tự đánh giá năng lực của việc ảnh hưởng ra quyết định của nhà trường; tự đánh giá năng lực trong thực hiên hiệu quả các mục đích, yêu cầu giảng dạy; tự đánh giá năng lực trong xây dựng kỷ luật tự giác cho học sinh; tự đánh giá năng lực trong tranh thủ tham gia của cha mẹ; tự đánh giá năng lực trong việc tranh thủ sự tham gia của cộng đồng; tự đánh giá năng lực trong việc tạo ra không khí trường học tích cực [74]. Quan điểm này nêu lên được các khía cạnh tự đánh giá năng lực của giáo viên trong các nhà trường phổ thông, nhưng có những biểu hiện chưa thực sự phù hợp với tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên trong các học viện, trường đại học và cao đẳng, cũng như các trường sĩ quan trong Quân đội.
Những kết quả
nghiên cứu trên cho thấy rằng, tự
đánh giá năng lực
giảng dạy có thể đo lường và lượng hóa được. Các biểu hiện tự đánh giá năng lực người giảng viên có tính đa dạng, tùy vào từng đối tượng giảng dạy mà có những biểu hiện tương ứng, Với quan điểm của Tschannen và W, Hoy (2001), tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên được biểu hiện trên ba mặt: Mục đích, yêu cầu giảng dạy; thu hút sinh viên và quản lý lớp học. Đây chính là các nội dung phần lớn có sự trùng hợp với điều 54 quy định về chức trách nhiệm vụ giảng viên của Trường Sĩ quan Lục quân 1: Trong giờ lên lớp, giảng viên vừa là người chỉ huy cao nhất, chịu trách nhiệm trước hiệu trưởng, thực hiện mọi quy chế, quy định về giáo dục đào tạo. Giảng viên vừa truyền đạt kiến thức, hướng dẫn thực hành, vừa quản lý, chỉ huy học viên. Giảng viên phối hợp với cơ quan phòng đào tạo, Ban sau đại học, chỉ huy đơn vị học viên trong công tác quản lý, rèn luyện học viên, giúp chỉ huy khoa, bộ môn tham gia
đánh giá kết quả học tập, rèn luyện, đề nghị xét lên lớp, lưu ban, khen thưởng, kỷ luật học viên” [59, tr. 105]. Như vậy, người giảng viên các trường sĩ quan khi lên lớp, họ không chỉ có nhiệm vụ thực hiện tốt các nội dung bài giảng, mà còn là người chỉ huy cao nhất chịu trách nhiệm về mọi vấn đề liên quan đến học tập, rèn luyện và kỷ luật của học viên. Vậy nên, xét về biểu hiện tự đánh giá năng lực quản lý lớp học của người giảng viên các trường sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam sẽ có những biểu hiện riêng biệt, do hoạt động giảng dạy chịu sự quy định của kỷ luật quân đội và diễn ra trong môi trường văn hóa sư phạm quân sự. Chính vì vậy, kế thừa quan điểm của Tschannen và W, Hoy và kết hợp với xin ý kiến chuyên gia, đồng thời căn cứ vào đặc điểm thực tiễn thực tiễn hoạt động giảng dạy, tác giả xác định các biểu hiện cụ thể của tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên các trường sĩ quan như sau:
Tự đánh giá năng lực thực hiện mục đích, yêu cầu giảng dạy
Mục đích là là kết quả mà con người cần đạt được sau khi thực hiện một hoạt động. Mục đích giảng dạy của giảng viên trong hoạt động dạy là kết quả dự kiến mà giảng viên cần đạt được sau khi tiến giảng một bài giảng, một môn học hay cả hoạt động dạy. Với giảng viên các trường sĩ quan, mục đích giảng dạy: trang bị tri thức, hình thành kỹ xảo, kỹ năng nghề nghiệp quân sự, cũng như hình thành các phẩm chất nhân cách cần thiết của người cán bộ sĩ quan đáp ứng các yêu cầu và nhiệm vụ của công việc sau này học viên sẽ đảm nhiệm theo đúng môn học, bài giảng mình đảm nhiệm.
Yêu cầu: là những mục tiêu, hay nói cách khác là những yêu cầu cụ thể mà người giảng viên cần thực hiện để đạt mục đích của cả hoạt động giảng dạy
Mục đích, yêu cầu giảng dạy có vai trò rất quan trọng trong giảng dạy nói chung và bài giảng nói riêng, nó định hướng và giúp lập kế hoạch cho các hoạt động giảng dạy. Cụ thể: mục đích bài giảng định hướng cho các bước tiếp theo trong thực hiện các yêu cầu của bài dạy; dựa trên mục đích mà lựa
chọn nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giảng dạy để tiết giảng có kết quả tốt nhất. Mục đích bài giảng là cơ sở để giảng viên xây dựng các câu hỏi, bài kiểm tra và các hình thức kiểm tra để đánh giá được tình trạng nhận thức của người học, đo lường năng lực của học viên sau tiết giảng hay học phần môn học. Trên cơ sở đó, khi thực hiện mục đích, yêu cầu giảng dạy sẽ quyết định phần lớn sự thành công trong giảng dạy của giảng viên.
Tự đánh giá năng lực thực hiện mục đích, yêu cầu giảng dạy là đánh giá hiệu quả hay nói cách khác là nhận thức và tin tưởng của giảng viên về hiệu quả có thể đạt được trong thực hiện các mục đích, yêu cầu bài giảng. Đây là một biểu hiện quan trọng nhất của tự đánh giá năng lực giảng dạy của giảng viên, chi phối đến tự đánh giá năng lực thu hút học viên và tự đánh giá năng lực quản lý lớp học.
Nội dung cụ thể của tự đánh giá năng lực thực hiện mục đích, yêu cầu giảng dạy được thể hiện qua các chỉ báo sau:
Tự đánh giá năng lực giúp học viên lĩnh hội tri thức, hình thành được các kỹ xảo, kỹ năng nghề nghiệp thông qua các bài giảng, môn học
Tự đánh giá năng lực cải thiện việc học tập của những học viên có kết quả học tập thấp;
Tự đánh giá năng lực bồi dưỡng những học viên giỏi;
Tự đánh giá năng lực bồi dưỡng phát triển sự sáng tạo của học viên;
Tự đánh giá năng lực phân tích, lý giải, lấy ví dụ cho các nội dung trong bài
giảng;
Tự đánh giá năng lực giảng bài phù hợp với đối tượng (phù hợp với đặc
điểm tâm, sinh lý; trình độ; chuyên ngành đào tạo của học viên);
Tự đánh giá năng lực sử dụng các phương pháp (giảng dạy, đánh giá kết quả người học), phương tiện (ngôn ngữ, cử chỉ phi ngôn ngữ và các đồ dùng trang thiết bị, vũ khí, khí tài quân sự) trong quá trình giảng dạy;
Tự đánh giá năng lực hoạt động dạy của bản thân thông qua đánh giá việc thực hiện các mục đích, yêu cầu giảng dạy trên.
Tự đánh giá năng lực thu hút học viên.
Tự đánh giá năng lực thu hút học viên là tự đánh giá việc lôi cuốn sự tham gia tích cực của học viên vào bài giảng của giảng viên. Đây chính là sự nhận thực, tin tưởng về hiệu quả có thể đạt được trong việc tạo cho các giờ giảng, tiết giảng, cũng như các buổi học của học viên diễn ra sôi nổi, học viên hăng hái phát biểu, thực hành các động tác với các nội dung thực hành theo đúng yêu cầu của bài học, môn học của chuyên ngành mình đào tạo (chỉ huy tham mưu lục quân; chỉ huy kỹ thuật công binh, pháo binh, thông tin…; người cán bộ chính trị đơn vị cơ sở) với sự lăn xả hết mình, tích cực đưa ra những câu hỏi hay, những ý kiến có tính sáng tạo, nhiệt tình, say sưa với môn học. Trong hoạt động giảng dạy ở các trường sĩ quan, do tính đặc thù của môi trường sư phạm quân sự, tự đánh giá năng lực thu hút học viên, còn được đánh giá ở biểu hiện tự đánh giá năng lực trong việc hỗ trợ người cán bộ quản lý đơn vị làm tốt vai trò người trợ giảng. Bởi lẽ người cán bộ là người quản lý các hoạt động tự học, tự ôn ở đơn vị của học viên. Điều này sẽ có tác động rất lớn đến quá trình học tập, cũng như sự tham gia tích cực của học viên ở trên lớp nói riêng, đến chất lượng học tập của học viên, chất lượng giảng dạy của giảng viên, chất lượng giáo dục và đào tạo của nhà trường nói chung.
Đánh giá mặt biểu hiện này không chỉ đơn thuần đánh giá được tự đánh giá năng lực thu hút học viên, đồng thời đánh giá được hiệu quả trong việc xây dựng thái độ của người học đối với bài giảng, môn học. Điều này cũng lý giải tại sao tự đánh giá năng lực thu hút học viên là một tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng, hiệu quả của các giờ giảng của giảng viên, đồng thời là khía cạnh quan trọng phản ánh tự đánh giá năng lực giảng dạy mỗi giảng viên. Tuy nhiên, để thực hiện được nội dung này, cần có sự nỗ lực lớn, đồng thời có sự phối hợp thật ăn ý của người dạy và người học trong
quá trình giảng viên thực hiện các nội dung giảng dạy.
Các chỉ báo tự đánh giá năng lực thu hút học viên thể hiện cụ thể như
sau:
Tự đánh giá năng lực dạy thành công với những học viên cá biệt (học
viên dân tộc thiểu số, học viên kết quả học tập chung còn thấp…)
Tự đánh giá năng lực khơi gợi tư duy phản biện của học viên, khiến họ luôn muốn phân tích, đánh giá và mở rộng vấn đề học tập;
Tự đánh giá năng lực làm cho học viên tin vào bản thân họ có khả năng học tốt môn học mình dạy;
Tự đánh giá năng lực trả lời các câu hỏi khó của học viên;
Tự đánh giá năng lực tạo ra những câu hỏi tốt (hay) cho học viên
Tự đánh giá năng lực khích lệ đối với những học viên chưa tập trung vào việc
học; học;
Tự đánh giá năng lực giúp học viên luôn luôn coi trọng việc học tập môn Tự đánh giá năng lực hỗ trợ cá bộ đơn vị làm tốt công tác trợ giảng;
Tự đánh giá năng lực quản lý lớp học (quản lý về mặt kỷ luật, sự chấp
hành về nội quy định trong lớp học ở giảng đường hoặc ngoài thao trường)
Tự đánh giá năng lực quản lý lớp học: Là nhận thức, tin tưởng của giảng viên về hiệu quả có thể đạt được trong việc tạo thói quen, duy trì sự chấp hành kỷ luật của học viên trong quá trình thực hiện các nội dung bài giảng.
Điều lệ công tác nhà trường Quân đội nhân dân Việt Nam của Bộ quốc phòng năm 2016 quy định: Giảng viên Chịu trách nhiệm trước người chi huy và cấp trên về nội dung bài giảng đảm nhiệm; trong giờ lên lớp (lý thuyết và thực hành) là người chỉ huy, quản lý lớp cao nhất; luôn giữ gìn uy tín, danh dự, nêu gương tốt trước học viên; đối xử công bằng, tôn trọng nhân cách và bảo vệ các quyền, lợi ích chính đáng của học viên; xây dựng môi trường giáo dục lành