nhiều người nhằm tăng cường hiểu biết lẫn nhau, thay đổi nhận thức, tiến tới điều chỉnh hành vi và thái độ phù hợp với nhu cầu phát triển của cá nhân/nhóm/cộng đồng/xã hội [16, tr.14].
Các loại hình truyền thông được căn cứ vào các tiêu chí khác nhau để phân loại
+ Theo tính chủ đích, truyền thông chia thành: Truyền thông kinh nghiệm; Truyền thông không chủ đích; Truyền thông có chủ đích.
+ Theo hình thức tiến hành, truyền thông chia thành: Truyền thông trực tiếp (được thực hiện giữa người với người, mặt đối mặt); Truyền thông gián tiếp (được thực hiện thông qua các phương tiện truyền thông như sách báo, loa, radio, TV…).
+ Theo phạm vi tham gia và chịu ảnh hưởng của truyền thông, chia thành: Truyền thông cho cá nhân; Truyền thông cho nhóm và Truyền thông đại chúng
+ Theo phương thức truyền thông trong tổ chức, chia thành: Truyền thông chính thức (là truyền thông theo hình thức được quy định hoặc bản thân quá trình truyền thông là một bộ phận của công việc. Những hình thức truyền thông chính thức phổ biến trong tổ chức là báo cáo, tờ trình, thông báo, biên bản…); Truyền thông không chính thức (người phát đi bản thông điệp đó chỉ với tư cách cá nhân, không thay mặt ai hay đại diện cho ai chính thức).
+ Truyền thông là một quá trình diễn ra theo trình tự tuyến tính thời gian, trong đó bao gồm các yếu tố tham dự chính sau đây [15, tr.34]:
Nguồn: là yếu tố mang thông tin tiềm năng và khởi xướng quá trình truyền thông. Trong đề tài, nguồn ở đây được nghiên cứu dưới 2 dạng thức: văn bản do Bộ VHTTDL ban hành và sự kiện/hoạt động do Bộ tổ chức.
Thông điệp: là nội dung thông tin được trao đổi từ nguồn phát đến đối tượng tiếp nhận thông tin. Trong đề tài, nội dung thông tin gồm nội dung các văn bản Bộ ban hành và chương trình, nội dung, mục đích, ý nghĩa của các hoạt
động/sự kiện do Bộ tổ chức.
Kênh thông tin: là phương tiện, qua đó thông điệp di chuyển từ người gửi đến người nhận. Trong khuôn khổ phạm vi nghiên cứu của đề tài có giới hạn, Kênh thông tin được khảo sát trong đề tài gồm truyền hình, báo in, báo điện tử, loa phường/xã và mạng xã hội; trong đó đặc biệt chú trọng đến các kênh thông tin là Cổng Thông tin điện tử của Bộ và các cơ quan báo chí thuộc Bộ.
Người nhận: hay được gọi công chúng/nhóm đối tượng truyền thông là cá nhân hoặc nhóm người tiếp nhận thông điệp.
Phản hồi: là thông tin ngược, là dòng chảy của thông điệp từ công chúng/nhóm đối tượng tác động trở về nguồn phát.
Nhiễu: là những yếu tố gây ra sự sai lệch khó được dự tính trước trong quá trình truyền thông, dẫn đến tình trạng thông điệp, thông tin bị sai lệch.
Sự khác biệt giữa Tuyên truyền và Truyền thông: có thể so sánh trên một số nét nhận diện chính như sau [16, tr.20]:
Truyền thông | |
Đề cao (tuyệt đối hóa) chủ thể | Đề cao công chúng |
Coi trọng áp đặt, một chiều | Đề cao tương tác bình đẳng |
Nhấn mạnh truyền đạt để chấp hành, có tính bắt buộc | Coi trọng chia sẻ, tìm kiếm tương đồng, tôn trọng sự khác biệt |
Tiến tới tương đồng, đồng nhât bằng cách xóa bỏ sự khác biệt | Gia tang tương đồng; giảm dân sự khác biệt; bảo lưu sự khác biệt |
Mô hình truyền thông một chiều từ trên xuống | Mô hình truyền thông hai chiều, đa chiều |
Chủ yếu bao cấp vì mục đích tuyên truyền chính trị | Là ngành kinh tế - dịch vụ xã hội phát triển (tập đoàn truyền thông) |
Các nước theo định hướng XHCN phổ biến dùng tuyên truyền cả trong | Phương Tây chủ yếu dung truyền thông trong chính sách đối nội, chủ |
Có thể bạn quan tâm!
- Truyền thông về văn hóa tại Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch giai đoạn 2016-2021 - 2
- Nhóm Các Công Trình Nghiên Cứu Về Truyền Thông Và Truyền Thông Chính Sách
- Nhóm Các Công Trình Nghiên Cứu Về Truyền Thông Trong Lĩnh Vực Văn Hóa Và Vai Trò Của Truyền Thông Đối Với Công Tác Quản Lý Văn Hóa
- Các Thành Tố Tham Gia Hoạt Động Truyền Thông Về Văn Hoá
- Lý Thuyết Vận Dụng Trong Luận Án - Thuyết Thiết Lập Chương Trình Nghị Sự (Agenda Setting)
- Hoạt Động Truyền Thông Văn Hóa Từ Góc Nhìn Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa
Xem toàn bộ 256 trang tài liệu này.
yếu dùng tuyên truyền trong chính sách đối ngoại |
- Truyền thông chính sách văn hóa
Theo tác giả Uhm Seung-Yong, chuyên gia TTCS tại Hàn Quốc: TTCS là những hoạt động trung tâm của các công chức chính phủ trong tổng thể quy trình chính sách từ xây dựng chương trình nghị sự, xây dựng chính sách, thực thi chính sách, đánh giá chính sách, trong đó chính phủ trung ương và địa phương xây dựng tốt các mối quan hệ với công chúng và các nhóm lợi ích, khuyến khích họ tham gia vào quy trình chính sách.
TTCS là quá trình chủ thể chính sách tiếp cận, gắn kết công chúng thông qua các phương thức, phương tiện truyền thông phù hợp nhằm làm cho công chúng hiểu biết và ủng hộ chính sách. Mục tiêu trước hết của TTCS là làm công chúng biết đến chính sách, kích thích nhu cầu tìm hiểu, tham gia thảo luận và góp ý chính sách của công chúng. Ở một mức độ cao hơn, TTCS lý giải, phân tích và thuyết phục để giành được sự ủng hộ rộng rãi, tự nguyện của công chúng. Ở một mức độ cao hơn nữa, TTCS nhằm xây dựng đồng thuận xã hội như nguồn lực để thực hiện thành công chính sách. Đồng thuận xã hội là trạng thái đa số công chúng đạt được sự đồng tình, nhất trí đối với chính sách có tác động đến lợi ích của họ. Đồng thuận xã hội đạt được khi công chúng đồng tâm, đồng lòng quy tụ theo một hệ giá trị, hệ mục tiêu và lợi ích chung. Nó là kết quả của quá trình trao đổi, thảo luận, thuyết phục, thương lượng, thoả hiệp giữa các bên liên quan, chứ không đơn thuần là sự đồng ý một cách miễn cưỡng hay sự tự nguyện bị thúc bách [136].
Trong công tác QLNN về văn hóa, TTCS giữ vai trò vô cùng quan trọng và cần được xem xét là một phương pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả QLNN vể văn hóa. Từ việc hệ thống hóa các khái niệm và quan niệm khác nhau của
nhiều tác giả về những thuật ngữ then chốt liên quan đến đề tài, luận án đề xuất một khái niệm mới về TTCSVH như sau:
TTCSVH là quá trình điều phối và quản lý dòng chảy thông tin về chính sách văn hóa, góp phần tác động, điều chỉnh mối quan tâm, sự tham gia đóng góp của các tầng lớp xã hội đối với chính sách văn hóa bằng các phương thức khác nhau.
TTCSVH bao gồm các hoạt động truyền thông về CSVH và cả các hoạt động văn hóa nhằm thực hiện chính sách. Cụ thể hơn, TTCSVH là thông qua các hoạt động của chủ thể chính sách văn hóa tương tác, trao đổi với các chủ thể sáng tạo văn hóa, các đối tượng thụ hưởng văn hóa và toàn xã hội biết thông tin, chủ động tham gia thảo luận, góp ý, hiểu rõ về chính sách văn hóa và tích cực tham gia trong quá trình thực thi chính sách văn hóa; nhằm tạo sự đồng thuận xã hội như một nguồn lực quan trọng để xây dựng văn hóa Việt Nam đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững của đất nước. Theo khái niệm NCS đưa ra, có thể xác định năng lực truyền thông của công chúng (bao gồm chủ thể sáng tạo văn hóa và đối tượng thụ hưởng văn hóa) có các cấp độ là: biết thông tin chính sách => chủ động thảo luận, góp ý => hiểu rõ chính sách => tích cực thực thi.
- Truyền thông về sự kiện văn hóa
Là truyền thông về các hoạt động do các cơ quan, đơn vị quản lý văn hóa ở các cấp tổ chức để quảng bá, giới thiệu các giá trị văn hóa đến với cộng đồng, phục vụ các nhóm đối tượng thụ hưởng văn hóa.
Xét theo góc độ QLNN, truyền thông các hoạt động, sự kiện văn hóa thường xuyên được tổ chức trong quá trình thực thi chính sách văn hóa, phục vụ công tác QLNN về văn hóa. Cũng thông qua hoạt động truyền thông các sự kiện văn hóa, người dân được trực tiếp thụ hưởng các giá trị văn hóa, tiêu biểu là các lĩnh vực điện ảnh với các Liên hoan phim, lĩnh vực lễ hội với các Festival. lĩnh vực di sản với các hoạt động tiêu biểu tại các bảo tàng,…
- Truyền thông về văn hóa
Đây là một khái niệm rộng, bao gồm nhiều hoạt động truyền thông gắn với công tác quản lý nhà nước về văn hóa, trong đó có công tác phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí, truyền thông chính sách, truyền thông về các hoạt động văn hóa,...
Các cấp độ tiếp nhận truyền thông về văn hóa có thể xác định theo năng lực truyền thông của đối tượng tiếp nhận có các cấp độ là: Tiếp cận => Hiểu
=> Đánh giá => Chủ động tham gia.
Liên quan đến nội hàm của khái niệm TT về văn hóa bao gồm là truyền thông đại chúng (mass communication), truyền thông xã hội (social media), marketing xã hội, tuyên truyền - giáo dục công chúng (propanganda), thông tin
- giáo dục - thuyết phục (IEC), vận động chính sách (policy advocacy). Rộng hơn nữa là các hoạt động về thăm dò dư luận, điều tra công chúng,…về các mối quan tâm đến chính sách văn hóa. Ở bình diện quốc tế, truyền thông về văn hóa cần phải xem xét ở việc xây dựng, định vị thương hiệu văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế thông qua các sản phẩm công nghiệp văn hóa.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ giới hạn của Luận án, TT về VH được tìm hiểu qua công tác phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí, những hoạt động do chủ thể TTCSVH thực hiện truyền thông về văn bản quản lý do Bộ VHTTDL ban hành, một số sự kiện do Bộ VHTTDL tổ chức và đánh giá các nguồn lực truyền thông của Bộ VHTTDL.
Truyền thông về văn hóa được hiểu là một quá trình truyền tải thông tin giữa cơ quan, đơn vị làm công tác QLNN vể văn hóa đến với người dân. Qua các hình thức truyền thông được thực hiện một cách liên tục, các nhóm cộng đồng dân cư sẽ có sự kết nối với nhau, dẫn đến những thay đổi trong nhận thức và hành vi về các vấn đề thuộc lĩnh vực văn hóa. Truyền thông luôn được coi là nền tảng để thiết lập các mối quan hệ giữa con người với nhau để hình thành nên một cộng đồng, một xã hội, đây cũng được coi là một phương thức đặc biệt
để lan tỏa các giá trị của văn hóa đến với cộng đồng và trong cộng đồng, góp phần tăng hiệu quả QLNN vể văn hóa.
1.2.2. Vai trò, chức năng của truyền thông trong công tác quản lý nhà
nước về văn hóa
Ở Việt Nam hiện nay, báo chí, truyền thông là vũ khí tư tưởng sắc bén của Đảng và Nhà nước, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là phương tiện quan trọng tuyên truyền phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, là diễn đàn để nhân dân tham gia quản lý xã hội, giám sát quyền lực, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hệ thống báo chí, truyền thông ở Việt Nam là cơ quan của các tổ chức đảng, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo báo chí, truyền thông bằng việc định hướng quy hoạch phát triển và quản lý hệ thống báo chí, truyền thông; định hướng tư tưởng, chính trị trong nội dung thông tin; quy hoạch, đào tạo, bố trí cán bộ; giám sát, kiểm tra hoạt động của các cơ quan báo chí và nhà báo; lãnh đạo việc tăng cường QLNN về báo chí, truyền thông, coi trọng thể chế hóa đường lối, quan điểm của Đảng bằng chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là xây dựng, bổ sung, từng bước hoàn thiện hệ thống luật pháp đối với các các lĩnh vực báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình và các phương tiện truyền thông khác trên Internet [36]. Công tác truyền thông của các cơ quan QLNN hướng tới mục tiêu giúp người dân có thể thực hiện được vai trò “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, nhờ vậy, quyền tiếp cận thông tin của người dân được bảo đảm, đồng thời trách nhiệm giải trình của các cơ quan công quyền cũng được nâng cao.
Văn hóa - một lĩnh vực đặc thù mà được soi chiếu và ảnh hưởng tới mọi mặt đời sống xã hội theo những góc độ khác nhau, vì thế, công tác QLNN về văn hóa càng đặc biệt phải coi trọng và rất cần sự đồng thuận của xã hội trong
quá trình xây dựng, ban hành và triển khai thực thi các chính sách về văn hóa. Trong công tác QLNN về văn hóa, truyền thông hướng tới mục tiêu giúp người dân có thể thực hiện được vai trò “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, cũng nhờ đó quyền tiếp cận thông tin của người dân được bảo đảm, đồng thời trách nhiệm giải trình của các cơ quan QLNN về văn hóa được nâng cao.
Truyền thông về văn hóa bao gồm các hoạt động phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí, xử lý các sự cố thông tin liên quan QLNN về văn háo; quá trình quảng bá, phổ biến, thông tin về chính sách đến người dân thông qua các hình thức tuyên truyền và qua các phương tiện truyền thông; truyền thông về các sự kiện văn hóa,...
Trước hết, cần khẳng định QLNN về văn hóa là sự tác động liên tục, có tổ chức, có chủ đích của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật và bộ máy của mình, nhằm phát triển văn hoá, điều chỉnh hoạt động của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực văn hóa và liên quan, với mục đích giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Cơ sở pháp lý của QLNN về văn hóa là Hiến pháp, Luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Như vậy QLNN nói chung và QLNN về văn hóa nói riêng có công cụ là hệ thống luật và các văn bản có tính pháp quy.
Các thành tố tham gia quy trình QLNN về văn hóa có sự gắn kết chặt chẽ với truyền thông về văn hóa như sau:
- Chủ thể QLNN về văn hóa cũng là chủ thể truyền thông về văn hóa : Là tiếng nói của Lãnh đạo Bộ (mà đại diện là Văn phòng Bộ), của các Cục, Vụ, đơn vị QLNN mà các báo chí, cổng thông tin của Bộ là người phát ngôn, thể hiện ý chí, quan điểm chỉ đạo, lãnh đạo của Bộ, từ Trung ương xuống tới các địa phương. Chủ thể QLNN cao nhất về văn hóa là Nhà nước. Nhà nước Việt Nam được tổ chức thống nhất từ Trung ương đến các địa phương, quyền quản lý được
phân cấp: cấp trung ương, cấp tỉnh (tỉnh và các thành phố trực thuộc trung ương), cấp huyện (huyện thuộc tỉnh, quận thuộc thành phố), cấp xã (xã thuộc huyện, phường thuộc quận).
- Khách thể QLNN về văn hóa cũng là khách thể/đối tượng truyền thông: các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực văn hóa hoặc có liên quan đến lĩnh vực văn hóa. Văn hóa với tư cách là khách thể quản lý được hiểu theo nghĩa cụ thể là: các hoạt động, sự kiện, chương trình văn hóa… Khách thể QLNN về văn hóa là: văn hóa và các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực văn hóa hoặc có liên quan đến lĩnh vực văn hóa. Văn hóa với tư cách là khách thể quản lý được hiểu theo nghĩa cụ thể là: các hoạt động văn hóa (trong đó có các dịch vụ văn hoá, hoạt động sáng tạo…) và các giá trị văn hoá (cụ thể là các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể). Mặt khác, theo sự phân công trong hệ thống các cơ quan nhà nước các cấp, không phải toàn bộ hoạt động văn hóa hiểu theo nghĩa rộng đều do ngành văn hóa quản lý.
- Nội dung QLNN về văn hóa cũng là những nội dung trọng tâm của truyền thông về văn hóa. Mục đích chung nhất của QLNN về văn hóa là nhằm giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đối với từng cấp, từng địa phương, từng hoạt động cụ thể thì mục đích QLNN về văn hóa phải được xác định cụ thể, sát trúng với yêu cầu nhiệm vụ và hoàn cảnh cụ thể.
- Cách thức quản lý là “sự tác động liên tục, có tổ chức, có chủ đích” không phải là việc làm có tính thời vụ, cũng không phải là sự thụ động của nhà quản lý, càng không phải là hoạt động đơn lẻ của nhà quản lý mà phải có tính hệ thống, đồng bộ và thống nhất giữa các cấp quản lý. Bên cạnh đó, quản lý có nhiều biện pháp khác nhau, nhưng truyền thông là công cụ rất quan trọng (hỗ trợ các biện pháp quản lý khác như ban hành văn bản quy phạm pháp luật, giám sát, thanh tra, kiểm tra, thi đua, khen thưởng…), giúp đảm bảo tính hệ thống, đồng