ban hành, thực thi và đánh giá chính sách, góp phần xây dựng, phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Và truyền thông về văn hóa cũng cần có những quan điểm tiếp cận khác biệt về lý luận, đặc biệt theo góc nhìn của quản lý văn hóa. Theo đó, truyền thông giữ vai trò vô cùng quan trọng và cần được xem xét là một phương pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả QLNN vể văn hóa.
Về thực tiễn, Điều 25 Hiến pháp (năm 2013) quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình”. Tuy nhiên, quyền tự do báo chí không tách rời trách nhiệm chính trị - xã hội, trách nhiệm công dân và đạo đức nghề nghiệp của cơ quan báo chí và nhà báo. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Báo chí của ta thì cần phải phục vụ nhân dân lao động, phục vụ chủ nghĩa xã hội”. Tư tưởng đó của Người tiếp tục được quán triệt trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về báo chí, truyền thông. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: Các cơ quan truyền thông phải thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ, nâng cao tính tư tưởng, nhân văn và khoa học, đề cao trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, góp phần xây dựng văn hóa và con người Việt Nam. Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: Chú trọng công tác quản lý các loại hình thông tin trên Internet để định hướng tư tưởng và thẩm mỹ cho nhân dân, nhất là cho thanh niên, thiếu niên.
Ở Việt Nam, các bộ/ngành có phòng truyền thông/quan hệ công chúng/tuyên truyền trực thuộc Văn phòng bộ như Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công Thương, Bộ Giao thông Vận tải... để làm đầu mối phối hợp với các cơ quan, đơn vị của bộ trong việc truyền thông, phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí. Ở một số ít bộ/ngành, nhiệm vụ này được tích hợp vào đơn vị khác như Thanh tra Chính phủ giao cho Vụ Kế hoạch và Tổng hợp... Một số bộ/ngành đã thành lập vụ chuyên trách về truyền thông như: Ngân hàng
Nhà nước (Vụ Truyền thông), Bộ Y tế (Vụ Truyền thông và Thi đua, khen thưởng), Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Vụ Thi đua, khen thưởng và Truyền thông); Bộ Ngoại giao (Vụ Thi đua, khen thưởng và Truyền thông ngoại giao); Bộ Tài nguyên và Môi trường (Vụ Thi đua, Khen thưởng và Tuyên truyền). Một số CQNN thành lập trung tâm thông tin/truyền thông làm bộ phận hoạt động truyền thông chuyên biệt. Điển hình là Trung tâm thông tin (Bộ Thông tin và Truyền thông) với nhiệm vụ xây dựng chương trình, kế hoạch, thực hiện cung cấp thông tin, tổ chức họp báo, thu thập thông tin từ báo chí, dư luận xã hội, xuất bản ấn phẩm thông tin đa phương tiện... Bộ Tài nguyên và Môi trường có Trung tâm Truyền thông tài nguyên và môi trường nhằm thực hiện công tác truyền thông, tuyên truyền thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ. Bên cạnh đó, một số cơ quan thành lập trung tâm truyền thông để thực hiện truyền thông về một số hoạt động như Trung tâm Truyền thông giáo dục (Bộ Giáo dục và Đào tạo), Trung tâm Truyền thông - Giáo dục sức khỏe (Bộ Y tế), Trung tâm Truyền thông và thông tin đường bộ (Tổng Cục Đường bộ Việt Nam)…
Truyền thông về văn hóa là một dạng thức truyền thông chuyên ngành, với nhiều đặc thù riêng biệt so với hoạt động truyền thông trên các lĩnh vực, ngành nghề khác. Nếu như ở các lĩnh vực khác, truyền thông chủ yếu phục vụ sự phát triển của chủ thể truyền thông thì trong văn hóa, truyền thông còn mang sứ mệnh định hướng tư tưởng cho công chúng/đối tượng tiếp nhận thông tin cũng là đối tượng thụ hưởng văn hóa và góp phần xây dựng, quảng bá hình ảnh quốc gia, nâng cao vị thế đất nước.
Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch là cơ quan quản lý nhà nước đa ngành, đa lĩnh vực, bên cạnh nhiệm vụ thực hiện công tác quản lý nhà nước ở các lĩnh vực hoạt động quan trọng của quốc gia, Bộ VHTTDL còn có trách nhiệm định hướng, bảo tồn, phát huy và góp phần kiến tạo những giá trị tốt đẹp của nền văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển bền vững
đất nước. Vì vậy, truyền thông về văn hóa không chỉ đóng góp trực tiếp cho sự phát triển các lĩnh vực hoạt động của ngành văn hóa, mà quan trọng hơn là lan tỏa những giá trị tốt đẹp, góp phần phát triển con người và ổn định xã hội.
Có thể bạn quan tâm!
- Truyền thông về văn hóa tại Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch giai đoạn 2016-2021 - 1
- Nhóm Các Công Trình Nghiên Cứu Về Truyền Thông Và Truyền Thông Chính Sách
- Nhóm Các Công Trình Nghiên Cứu Về Truyền Thông Trong Lĩnh Vực Văn Hóa Và Vai Trò Của Truyền Thông Đối Với Công Tác Quản Lý Văn Hóa
- Vai Trò, Chức Năng Của Truyền Thông Trong Công Tác Quản Lý Nhà
Xem toàn bộ 256 trang tài liệu này.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, cùng với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông mới, sự kết nối, tương tác của con người là không giới hạn, đó cũng là thuận lợi nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức cho các những người làm công tác QLNN về văn hóa. Trong thời gian qua, những sự cố thông tin liên quan các lĩnh vực QLNN về văn hóa xuất hiện nhiều trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong dư luận xã hội, đòi hỏi các nhà quản lý văn hóa cần nâng cao hơn nữa hiệu quả của truyền thông về văn hóa, tăng cường trao đổi, đối thoại nhiều hơn với công chúng, để kịp thời giải đáp thắc mắc về chính sách, về sự kiện văn hóa, về những sai phạm trong quản lý ở các cấp (tiêu biểu là công tác tu bổ di tích trong thời gian qua), về những lĩnh vực có tác động lớn đến xã hội như vai trò của nghệ sỹ trong phát ngôn, hiện tượng lệch chuẩn trên mạng xã hội từ góc nhìn văn hóa,… Từ đó, thu hút sự quan tâm của người dân và tạo sự đồng thuận xã hội trong công tác QLNN về văn hóa.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn đặt ra, NCS chọn đề tài Truyền thông về văn hóa tại Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch giai đoạn 2016-2021 làm đề tài luận án của mình, trong đó trọng tâm là tiếp cận theo góc độ QLNN về văn hóa, khảo sát đánh giá qua hoạt động truyền thông các văn bản quản lý do Bộ VHTTDL ban hành, các sự kiện văn hóa do Bộ tổ chức và phân tích cụ thể ở một số lĩnh vực: di sản văn hóa, quản lý lễ hội và điện ảnh.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận án là làm rõ về mặt lý luận và thực tiễn vấn đề truyền thông phục vụ QLNN về văn hóa tại Bộ VHTTDL giai đoạn 2016-2021, nhận
diện thực trạng truyền thông về văn bản pháp luật, chính sách, truyền thông về các sự kiện, hoạt động văn hóa và hiệu quả của công tác này; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác truyền thông phục vụ QLNN về văn hóa của Bộ và ngành đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan tình hình nghiên cứu, hệ thống hóa cơ sở lý luận về truyền thông gắn với QLNN về văn hóa, trình bày lý thuyết vận dụng trong luận án và xác lập khung phân tích của luận án.
- Đánh giá thực trạng truyền thông về văn hóa tại Bộ VHTTDL giai đoạn 2016 - 2021: tìm hiểu hoạt động của chủ thể truyền thông, khảo sát và đánh giá công tác phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí, truyền thông chính sách, văn bản, truyền thông sự kiện văn hóa, mức độ tiếp nhận thông tin của các đối tượng của truyền thông, hiệu quả truyền thông qua các kênh thông tin thuộc Bộ cũng như các nguồn lực để thực hiện công tác truyền thông về văn hóa của Bộ VHTTDL.
- Nhận diện những vấn đề đặt ra; đề xuất phương hướng, giải pháp và mô hình nhằm nâng cao hiệu quả truyền thông về văn hóa trong thời gian tới, phục vụ hiệu quả hơn cho công tác QLNN về văn hóa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Công tác truyền thông về văn hóa tại Bộ VHTTDL trên các phương diện: chủ thể truyền thông, phương thức truyền thông, nội dung truyền thông, đối tượng tiếp nhận thông tin và hiệu quả truyền thông.
3.2. Đối tượng khảo sát
- Các nhà quản lý văn hóa, người làm công tác truyền thông ở Bộ VHTTDL và địa phương (các Sở Văn hóa và Thể thao; Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Phòng Văn hóa, Trung tâm Văn hóa, thể thao các huyện/thị xã).
- Đại diện chủ thể sáng tạo văn hóa và người thực hành văn hóa: nghệ nhân, nghệ sỹ và những người hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật.
- Người dân sinh sống tại một số địa phương.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
3.3.1. Phạm vi không gian
Các đơn vị QLNN thuộc Bộ VHTTDL và các cơ quan, đơn bị báo chí, truyền thông thuộc Bộ, trong đó tập trung nghiên cứu các cơ quan, đơn vị báo chí, truyền thông do Bộ VHTTDL là cơ quan chủ quản (Báo Văn hóa, Báo Điện tử Tổ quốc và Tạp chí Văn hóa nghệ thuật).
3.3.2. Phạm vi thời gian
Công tác truyền thông về văn hóa tại Bộ VHTTDL giai đoạn 2016 - 2021, khi bộ phận chuyên trách về truyền thông được thành lập tại Bộ VHTTDL.
3.3.3. Phạm vi về nội dung nghiên cứu
Truyền thông về văn hóa bao gồm nhiều mảng như: truyền thông về văn bản, chính sách; truyền thông về sự kiện, hoạt động; giải quyết khủng hoảng truyền thông, truyền thông các chiến dịch văn hóa và xây dựng thương hiệu văn hóa quốc gia,…Trong khuôn khổ luận án này, NCS chỉ tập trung tìm hiểu về công tác truyền thông các văn bản chính sách do Bộ VHTTDL ban hành và các hoạt động, sự kiện văn hóa do Bộ tổ chức để thực hiện các chính sách đó. Bộ VHTTDL quản lý nhiều lĩnh vực của văn hóa, luận án chỉ tập trung vào ba lĩnh vực có nhiều vấn đề nổi cộm về công tác quản lý là: di sản văn hóa, lễ hội và điện ảnh.
4. Câu hỏi nghiên cứu
- Những thành tố nào tham gia hoạt động truyền thông phục vụ QLNN về văn hóa tại Bộ VHTTDL?
- Thực trạng công tác truyền thông gắn với QLNN về văn hóa tại Bộ VHTTDL giai đoạn 2016-2021 ra sao?
- Giải pháp nào để nâng cao hiệu quả truyền thông phục vụ tốt cho công tác QLNN về văn hóa tại Bộ VHTTDL nói riêng và ở Việt Nam nói chung?
5. Giả thuyết nghiên cứu
- Các thành tố chính tham gia hoạt động truyền thông tại Bộ VHTTDL gồm chủ thể truyền thông, hoạt động truyền thông, đối tượng tiếp nhận thông tin, nguồn lực truyền thông gắn bó mật thiết với những nội dung và mục tiêu QLNN về văn hóa của Bộ.
- Công tác truyền thông về văn hóa tại Bộ VHTTDL giai đoạn 2016- 2021 đã được quan tâm, đạt một số kết quả, góp phần hỗ trợ cho hoạt động QLNN, bám sát yêu cầu chung về truyền thông của CQNN, tuy nhiên, hiệu quả chưa cao.
- Để nâng cao hiệu quả truyền thông về văn hóa phục vụ công tác QLNN tại Bộ VHTTDL, cần một hệ thống các giải pháp mang tính đồng bộ, toàn diện và có tầm nhìn xa, đặc biệt cần phát huy vai trò và đầu tư phát triển bộ phận chuyên trách về truyền thông, xây dựng mô hình truyền thông về văn hóa chuyên nghiệp, bài bản.
6. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu, kỹ thuật sử dụng
6.1. Cách tiếp cận
Đề tài sử dụng cách tiếp cận liên ngành, trong đó chủ đạo sẽ là cách tiếp cận của khoa học quản lý văn hóa kết hợp với cách tiếp cận của văn hóa học, xã hội học, lý luận báo chí - truyền thông để nghiên cứu, phân tích, đánh giá về thực trạng công tác QLNN về TTCS trong lĩnh vực văn hóa thông qua các hoạt động do Bộ VHTTDL thực hiện. Trong đó:
- Tiếp cận theo khoa học quản lý văn hóa để nghiên cứu, đánh giá chu trình xây dựng, ban hành và thực thi chính sách trong lĩnh vực văn hóa, từ đó thấy được vai trò của truyền thông trong từng giai đoạn, gắn với QLNN về văn hóa; nhìn nhận, xem xét từ góc độ quản lý được đặt trong mối quan hệ giữa chủ
thể chính sách - đối tượng chính sách. Từ đó, đề xuất các giải pháp phù hợp, giúp hạn chế những bất cập và tăng cường hiệu quả công tác TT, góp phần nâng cao công tác QLNN về văn hóa.
- Tiếp cận văn hóa học nhằm tìm hiểu nhu cầu, nhận thức, sự quan tâm của người dân và các đối tượng thụ hưởng đối với chính sách văn hóa và các hoạt động văn hóa của Nhà nước từ đó có những thay đổi, điều chỉnh cho phù hợp.
- Tiếp cận xã hội học để có thể đo lường, đánh giá thực tiễn thông qua các điều tra định lượng; nhìn nhận, phân tích các phương diện xã hội của vấn đề nghiên cứu; giải thích những khác biệt do vùng miền, thành phần xã hội và các biến số khác tác động đến hiệu quả của công tác TT về văn hóa .
- Tiếp cận theo lý luận báo chí - truyền thông để phân tích quá trình truyền tải/tiếp nhận thông tin về chính sách và các hoạt động do Bộ VHTTDL tổ chức và mức độ tham gia của người dân trong các chu trình soạn thảo, ban hành và thực thi các chính sách, mục tiêu về văn hóa.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
6.2.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu thứ cấp
Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu được sử dụng trong luận án nhằm bổ sung thông tin cho đề tài nghiên cứu. Nguồn tài liệu của đề tài là những công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước, các đề tài khoa học, luận văn, luận án, sách, báo, tạp chí, bài viết... có nội dung liên quan đến vấn đề truyền thông, truyền thông chính sách và truyền thông trong lĩnh vực văn hóa. Ngoài ra, NCS còn tổng hợp, phân tích các văn bản Luật, Nghị định, Thông tư, Quyết định, quy định..., các Báo cáo tổng kết của các Cục, Vụ, cơ quan quản lý và tổ chức liên quan. Từ đó NCS có thể hệ thống hóa cơ sở lý luận của luận án, xác định khung phân tích, kế thừa và xử lý các tư liệu thứ cấp phục vụ cho nội dung của luận án.
6.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Thông tin định lượng được sử dụng trong luận án là số liệu thứ cấp, kế thừa từ đề tài cấp Bộ “Giải pháp truyền thông trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch (qua khảo sát các hoạt động do Bộ VHTTDL thực hiện)”, NCS làm thư ký đề tài, cũng là thành viên trực tiếp thực hiện các điều tra xã hội học trong 2 năm 2018-2019 (gồm 500 phiếu hỏi, dành cho 2 nhóm đối tượng là “quản lý” và “người dân”) [6].
6.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Mục đích của phương pháp này nhằm thu thập thông tin định tính bổ trợ và minh họa cho kết quả nghiên cứu định lượng. Phương pháp này giúp cho có những lý giải sâu hơn về vấn đề nghiên cứu. Trong luận án, bên cạnh việc kế thừa kết quả phỏng vấn sâu của đề tài cấp Bộ nêu trên, NCS đã thực hiện thêm 30 cuộc phỏng vấn sâu để phân tích, lý giải cụ thể hơn về thực trạng TTCS trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch.
6.2.4. Phương pháp chuyên gia: Tham khảo, xin ý kiến tư vấn của các chuyên gia, nhà quản lý văn hóa, nghiên cứu văn hóa có uy tín trong lĩnh vực chính sách văn hóa, truyền thông, TTCS để có những góp ý, gợi mở hữu ích liên quan đến đề tài luận án (có Phụ lục “Danh mục xin ý kiến chuyên gia”).
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
7.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận án góp phần hoàn thiện thêm mảng nghiên cứu lý luận về truyền thông về văn hóa, hệ thống hóa những vấn đề lý thuyết liên quan, bổ sung thêm một số luận cứ khoa học vào những nghiên cứu truyền thông hiện nay nói chung và TTCSVH nói riêng.
- Khẳng định vị trí, vai trò của công tác phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí, truyền thông văn bản pháp luật, chính sách, truyền thông sự kiện, hoạt động văn hóa phục vụ công tác QLNN về văn hóa.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn