Trong tổ chức thông tin, chúng ta vẫn bị ràng buộc bởi những quan niệm cũ kĩ và cứng nhắc, hình thức và kém hiệu quả. Tại các cơ quan công quyền, đội ngũ làm truyền thông có thể đông, nhưng hiệu quả và khả năng phản ứng khi có khủng hoảng là khá thấp… Ví dụ, trong các cuộc họp báo, khi xảy ra tình huống đặc biệt nào đó thì rất khó khăn để đưa ra một tuyên bố chính sách hoặc giải thích cho công chúng, gây mất lòng tin và tạo nên sự nghi ngờ trong công chúng. Việc các cơ quan công quyền ở địa phương sử dụng các kênh truyền thông hiện đại cũng kém. Hiện nay, Việt Nam có tới hơn 90 triệu tài khoản các mạng xã hội, tiêu biểu là Zalo, Mocha, Gapo, Lotus,… với thời lượng truy cập Internet thường xuyên với mức độ trung bình 24,7 giờ/tuần. Hơn 30 triệu người có tài khoản Facebook và tiếp nhận rất nhiều thông tin qua mạng xã hội này. Tuy nhiên, những nguồn thông tin chính thống và có thẩm quyền từ phía Chính phủ trên các trang mạng xã hội lại ít, phản ứng chậm, hình thức thông tin không tạo ấn tượng và “hút” được sự chú ý. Trong khi đó, tin giả, bịa đặt, suy diễn xuất hiện tràn lan khiến người tham gia mạng xã hội khó kiểm chứng nên mặc nhiên bị định hướng bởi những thông tin này. Sự yếu kém, không mang tính chuyên nghiệp của tổ chức thông tin truyền thông, trong giao tiếp với người dân của các chủ thể truyền thông khiến cho có những việc chính quyền làm tốt mà người dân không hiểu được... từ đó gây nên những xung đột, tạo ra những điểm nóng xã hội, mất niềm tin của một bộ phận dân cư mà lẽ ra có thể tránh được nếu tổ chức truyền thông tốt hơn”.
Công tác TT của các Bộ, ngành và cơ quan chức năng còn thiếu tính chiến lược, chưa gắn với trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và đặc điểm của từng loại hình chính sách. Phương thức TT hiện nay chưa thu hút chủ thể khác tham gia vào giải quyết các vấn đề công cộng, chưa tạo điều kiện để các cá nhân, tổ chức thực hiện quyền tham gia vào quản lý xã hội để tăng sự đồng thuận xã hội. Hiện nay, việc tổ chức thực hiện TT qua phương tiện thông tin đại chúng là khá phổ biến, điều này dẫn tới công chúng thường thụ động tiếp nhận thông tin, dư luận xã hội
được hình thành trên cơ sở có định hướng do đó chưa hoàn toàn phản ánh đúng thực tại khách quan hay thiếu tính bền vững. Điều này vừa hạn chế sự tham gia của các bên vào quá trình xây dựng chính sách, vừa thiếu tính kết nối giữa công tác xây dựng, thi hành và đánh giá chính sách cũng như chưa phát hiện kịp thời và đề xuất xử lý điểm nghẽn, vướng mắc, bất cập từ thực tiễn.
Thực tế cho thấy, các bộ, ngành chưa quan tâm đầu tư, phát triển bộ phận chuyên trách về TT để tương xứng với vai trò của TT nói chung và TTCS nói riêng, đồng thời cũng chưa có sự phối hợp, gắn kết giữa các cơ quan ban hành chính sách với cơ quan truyền thông trong việc khảo sát, thăm dò dư luận, đối thoại chính sách để xây dựng, hoàn thiện chính sách cũng nhưng phản biện, sửa đổi chính sách phù hợp với thực tiễn.
Trong công tác điều hành, lãnh đạo chính sách ở Việt Nam hiện nay, công tác TT chưa được coi trọng, đặc biệt trong các chương trình cải cách hành chính, phát triển nguồn nhân lực khu vực công. Ngay từ giai đoạn lựa chọn các vấn đề chính sách, do thiếu truyền thông nên ở nhiều nơi, các cấp quản lý còn chưa coi trọng việc phân tích chính sách. Hơn nữa, cho đến nay, các Bộ, ngành đều thiếu những chương trình truyền thông, giáo dục về giá trị cốt lõi của nền công vụ cũng như vai trò của TT nên công tác truyền thông chỉ tập trung ở nhiệm vụ của một số bộ phận tuyên truyền và giáo dục, phổ biến pháp luật; các phương thức truyền thông vì thế cũng thiếu tính chiến lược.
Đối với các văn bản mới được ban hành, phần lớn chỉ được tuyên truyền trên các kênh thông tin của bộ, ngành như Cổng thông tin điện tử, Báo của bộ, do đó hiệu ứng lan tỏa không cao, người dân khó tiếp cận chi tiết để hiểu thấu đáo được nội hàm của các chính sách, dẫn đến việc thực thi cũng nhiều bất cập. Trong giai đoạn vửa qua, Bộ VHTTDL đã lần đầu tiên có một bộ phận truyền thông, tuy nhiên, với 7 nhân sự, được điều chuyển từ các đơn vị, bộ phận khác sang làm công tác truyền thông, trong đó phần lớn nhân sự chưa qua đào tạo về chuyên ngành báo chí, truyền thông cũng là một thách thức không nhỏ
trong quá trình thực hiện truyền thông về văn hóa.
Có thể bạn quan tâm!
- Tiếp Nhận Thông Tin Về Sự Kiện, Hoạt Động Do Bộ Văn Hoá, Thể Thao Và Du Lịch Thực Hiện
- Những Tồn Tại, Hạn Chế Cần Khắc Phục Và Nguyên Nhân
- Những Vấn Đề Đặt Ra Về Công Tác Truyền Thông Phục Vụ Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hóa Hiện Nay
- Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Truyền Thông Của Bộ Văn Hoá, Thể Thao Và Du Lịch Phục Vụ Quản Lý Nhà Nước Về Văn Hoá
- Nghiên Cứu, Xây Dựng Chiến Lược Truyền Thông Về Văn Hóa Phù Hợp Với Từng Lĩnh Vực Trong Bối Cảnh Hiện Nay
- Truyền thông về văn hóa tại Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch giai đoạn 2016-2021 - 19
Xem toàn bộ 256 trang tài liệu này.
3.1.5. Công tác truyền thông về văn hóa đối mặt với nhiều khó khăn trong bối cảnh thời đại số
Cuộc CMCN 4.0 đã mang đến nhiều cơ hội cho tất cả các lĩnh vực trong đời sống xã hội nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề, trong đó có nguy cơ ảnh hưởng an ninh phi truyền thống đối với nước ta, cụ thể là an ninh thông tin, an ninh mạng, an ninh kinh tế, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm sử dụng công nghệ cao... Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển Internet nhanh nhất thế giới với tỷ lệ người dân sử dụng điện thoại di động, Internet khá cao. Những thông tin xấu, độc có cơ hội lan nhanh và rộng, tác động đến nhận thức của người dùng mạng, đặc biệt là thế hệ trẻ và khi không có “bộ lọc thông tin” chuẩn thì nguy cơ dẫn đến các hành vi lệch chuẩn xã hội. Trung tâm lưu chiểu dữ liệu truyền thông số quốc gia đã vận hành để lưu chiểu các bài báo điện tử, báo nói, báo hình giúp nâng cao hiệu quả năng lực của cơ quan quản lý nhà nước trong việc phòng ngừa, ngăn chặn thông tin không phù hợp với pháp luật Việt Nam, theo đó, năm 2020 đã ngăn chặn, gỡ bỏ 29.792 video clip xấu độc trên trang Youtube. Facebook đã gỡ 4.125 bài viết, 2.200 đường link có nội dung vi phạm [55, tr.68], đây thực sự là những số liệu không nhỏ, chưa kể những nguy hại về sức “khuếch tán” thông tin độc hại là rất khó đo đếm.
Một rủi ro đáng kể nữa là sự khủng hoảng truyền thông, xuất phát từ việc người dân có thể tiếp cận thông tin mọi lúc mọi nơi, với tốc độ lan truyền của tin giả, tin chưa được kiểm chứng một cách nhanh chóng, vượt khỏi sự kiểm soát của các nhà quản lý, tạo nên sự phản ứng mạnh mẽ trong dư luận và nguy cơ dẫn đến những tác động tiêu cực đối với xã hội. Thời gian qua, đã xuất hiện hàng nghìn trang thông tin điện tử, trang mạng xã hội có nội dung xấu, đăng tải ấn phẩm đồi trụy, bạo lực, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc, những phát ngôn gây sốc, vô đạo đức cũng chưa có hình thức được kiểm soát, vấn đề thiếu
kiểm soát phim ảnh phát tán trên không gian mạng...Điều đó là những thách thức rất lớn đối với công tác QLNN về văn hóa nói chung và công tác TTCSVH nói riêng.
Thời đại số, công nghệ số, xã hội số cũng đòi hỏi văn hóa số, ở đó hình thành những chuẩn mực ứng xử mới, bên cạnh những chuẩn mực ứng xử cũ vẫn đang tồn tại, đôi lúc bất cập, thậm chí xung đột nhau, trong đó có vấn đề ứng xử với TTCSVH.
3.1.6. Tính tương tác giữa chủ thể truyền thông và đối tượng truyền thông kém, năng lực truyền thông của cộng đồng chưa cao
Các hoạt động truyền thông về văn hóa phần lớn gắn với công tác tuyên truyền, phố biến giáo dục pháp luật, trong đó chủ yếu hướng tới đối tượng cán bộ, công chức, viên chức, người lao động làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ mà chưa chú trọng vào đối tượng là người dân khi tham gia vào các hoạt động văn hóa. Điều đó cũng là thực trạng tương tác giữa chủ thể truyền thông và đối tượng truyền thông kém. Vì các chính sách văn hóa không chỉ tác động tới các chủ thể sáng tạo văn hóa và ảnh hưởng tới các đối tượng thụ hưởng văn hóa, là toàn xã hội.
Mục tiêu của các chính sách luôn là phục vụ lợi ích công cộng nhưng các lợi ích toàn cục, lâu dài và bền vững áp dụng vào từng giải pháp chính sách cụ thể không phải bao giờ cũng dễ được mô tả trong mọi văn bản chính sách. Điều này dẫn tới các nguy cơ là một số chính sách xa rời các mục tiêu phát triển tổng thể và lâu dài; bên cạnh đó là nguy cơ hiểu lầm (nhất là từ phía đối tượng chính sách và xã hội) đối với các phản ứng chính sách. Trong các chính sách văn hóa, thực tế đã cho thấy có những xung đột trong quan điểm tiếp cận từ các góc nhìn khác nhau giữa các chủ thể chính sách # chủ thể sáng tạo văn hóa # đối tượng thụ hưởng văn hóa
Bên cạnh đó, trong TT về VH còn đối mặt những khó khăn riêng, đặc thù
của văn hóa, đó là: Chủ thể ban hành và tổ chức thực thi chính sách là hệ thống các cơ quan nhà nước và hành chính nhà nước có thẩm quyền nhưng đối tượng chính sách lại là toàn dân, bao gồm cả những người thụ hưởng văn hóa và các chủ thể sáng tạo văn hóa. Những cá tính sáng tạo trong nghệ thuật và góc nhìn của các chủ thể sáng tạo văn hóa đôi khi có sự bất đồng trong động lực chính sách, trong nhận diện vấn đề chính sách hay tìm kiếm các giải pháp chính sách và từ đó họ có những ảnh hưởng nhất định tới công chúng - đối tượng thụ hưởng văn hóa đối với các vấn đề trong chính sách, đôi khi dẫn tới số đông phản ứng chính sách một cách cảm tính.
Theo chia sẻ của ông Lê Việt Đông, Phó Tổng Giám đốc Cổng TTĐT Chính phủ trong bài đăng tại Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế: Truyền thông chính sách và đồng thuận xã hội cho biết: trong năm 2017, với 410 dự thảo văn bản quy phạm pháp luật chỉ có 240 ý kiến góp ý của người dân - đây thực sự là một con số rất khiêm tốn, thể hiện thái độ thiếu quan tâm của người dân đối với các dự thảo chính sách. Đó cũng là một khía cạnh cụ thể biểu hiện năng lực truyền thông của công chúng chưa cao, chưa chủ động tìm đến những nguồn tin chính thức để thể thiện vai trò của người dân tham gia vào quá trình xây dựng, hoàn thiện chính sách pháp luật của nhà nước. Năng lực truyền thông của công chúng cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố, từ giới tính, đặc điểm xã hội, đặc tính vùng miền và môi trường học tập, làm việc hay sinh sống,…Đặc biệt, với các chủ thể sáng tạo văn hóa hay các đối tượng thụ hưởng văn hóa thì năng lực truyền thông có sự chênh lệch rất lớn trong việc tiếp nhận, sàng lọc thông tin về CSVH, từ đó mức độ tham gia trong quá trình thực thi và đánh giá CSVH cũng sẽ rất khác nhau.
3.2. Phương hướng truyền thông phục vụ quản lý nhà nước về văn hoá hiện nay
Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của các nền tảng mạng xã hội, sự kết
nối, tương tác đa chiều, không giới hạn, các ngành, các lĩnh vực đều có không gian mới và cần thiết lập hệ sinh thái mới trên môi trường số, trong đó có công tác truyền thông về văn hóa. Xuất phát từ những căn cứ lý luận và thực tiễn nghiên cứu, cho thấy phương hướng truyền thông về văn hóa cũng cần phải đáp ứng những yêu cầu cụ thể sau:
Một là, cần phát huy vai trò của các chủ thể chính sách trong công tác truyền thông về văn hóa, từ đó, các chủ thể truyền thông cần nhận thức rõ tầm quan trọng của truyền thông để tích cực, chủ động có những giải pháp trước mắt và chiến lược lâu dài đối với từng CSVH cụ thể. Trong đó, cần quan tâm, đầu tư thời gian và các điều kiện liên quan để công tác phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí, TTCS, truyền thông sự kiện văn hóa đạt được hiệu quả lâu dài và có những biện pháp hữu hiệu để quản trị rủi ro về khủng hoảng thông tin.
Đặc biệt là củng cố, phát triển bộ phận truyền thông chuyên trách để quản lý thống nhất hoạt động truyền thông với các nhiệm vụ như tham mưu, trợ giúp người phát ngôn, đầu mối xây dựng, duy trì quan hệ và cung cấp thông tin cho báo chí, theo dõi, phòng ngừa và xử lý khủng hoảng truyền thông, xây dựng và duy trì hoạt động của các kênh truyền thông, các sản phẩm truyền thông. tăng sự tương tác hai chiều, đối thoại với công chúng, xử lý nhanh các sự cố truyền thông bằng cách xây dựng quy trình minh bạch thông tin, phản ứng nhanh khi xã hội cần thông tin. Ngày 12/5/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 12/CT-TTg về tăng cường công tác tuyên truyền, định hướng hoạt động truyền thông, báo chí phục vụ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; kịp thời chấn chỉnh và xử lý các vi phạm trong hoạt động báo chí, truyền thông, trong đó có giao Bộ Thông tin và Truyền thông “Hỗ trợ các bộ, ngành, địa phương kiện toàn, phát triển bộ phận truyền thông để thực hiệ nhiệm vụ kết nối, chủ động cung cấp thông tin, kịp thời xử lý các vấn đề dư luận xã hội quan tâm thuộc lĩnh vực quản lý của bộ, ngành, địa phương”, đây là một căn cứ rất quan trọng cho việc đầu tư, phát triển bộ phận chuyên trách truyền thông về văn hóa tại Bộ
VHTTDL.
Bên cạnh đó, cũng cần cung cấp thông tin và thiết lập mối quan hệ với báo chí một cách chủ động hơn. Họp báo phải được tiến hành đầy đủ và thực chất, không né tránh câu hỏi của phóng viên, gửi thông cáo báo chí chủ động, kịp thời. Chủ động hình thành và duy trì mối quan hệ thường xuyên, liên tục với báo chí, mời phóng viên tham gia vào các hội thảo lấy ý kiến hoặc phổ biến văn bản pháp luật, các sự kiện của cơ quan để báo chí, truyền thông hiểu hoạt động của CQNN và đưa tin khách quan, kịp thời.
Hai là, phải đảm bảo cung cấp nội dung thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời, phù hợp với đặc thù của từng lĩnh vực để truyền thông phát huy vai trò một cách hiệu quả, có thông tin xác thực, đúng với bản chất sự việc, giúp người dân hiểu được đầy đủ các văn bản, chính sách cũng như biết đến các hoạt động của Bộ, Ngành thì các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ cần chủ động thông tin những vấn đề cần thiết cho truyền thông. Từ đó, kịp thời định hướng, tăng cường hiệu quả lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước đối với xã hội. Bên cạnh đó, nhờ có thông tin đa chiều từ truyền thông, các quyết định của Đảng sẽ phản ánh đúng quy luật hơn, đảm bảo tính hiện thực, khả thi cao, đường lối, chính sách của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước sẽ phù hợp với ý chí và nguyện vọng của đại đa số người dân. Cung cấp thông tin toàn diện cho truyền thông là đảm bảo cho truyền thông hoạt động vừa phong phú, đa dạng vừa đúng định hướng chính trị trong mọi hoàn cảnh. Trong nội dung thông tin, cần chú trọng việc xây dựng, thiết kế các thông điệp phù hợp, đảm bảo tần suất, dung lượng của các thông điệp xuất hiện trước công luận thường xuyên, liên tục, tăng hiệu ứng lan tỏa; cần đa dạng hóa nội dung, xây dựng các kế hoạch cho công tác truyền thông, bảo đảm tốc độ nhanh chóng, sự tin cậy của thông tin. Hình thành các diễn đàn hỏi/đáp, chuyên mục tương tác với người dân trên cổng thông tin điện tử, trang mạng xã hội chính thức; tăng cường các hình ảnh minh họa, các bài phóng sự, phỏng vấn, bình luận của người dân, doanh nghiệp,
những đối tượng bên ngoài, chịu ảnh hưởng bởi các chính sách, pháp luật để tạo ra sự khách quan và thu hút hơn với công chúng.
VÍ DỤ VỀ THÔNG ĐIỆP TRUYỀN THÔNG VỀ VĂN HÓA
- Thông điệp chung của Ngành Văn hóa: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”;
- Thông điệp của lĩnh vực thư viện: “Góp một cuốn sách, lan tỏa tri thức, khơi dậy khát vọng Việt Nam”; "Sách - Sứ mệnh phát triển Văn hóa đọc" (Đề án Văn hóa đọc).
- Thông điệp của lĩnh vực điện ảnh: “Xây dựng nền công nghiệp điện ảnh Việt Nam giàu bản sắc dân tộc, hiện đại và nhân văn” (Đề án Liên hoan phim lần thứ XII)
Ba là, phát huy tối đa hiệu quả của các nguồn lực truyền thông, trong đó đặc biệt là các kênh thông tin thuộc Bộ VHTTDL cũng như các phương tiện truyền thông đại chúng, trong đó đặc biệt là truyền hình và mạng xã hội. Bên cạnh việc đầu tư, nâng cấp các điều kiện để vận hành các kênh thông tin, cần phải có những nghiên cứu, đánh giá thường xuyên về mức độ lan tỏa thông tin của các kênh thông tin để có những điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tiễn. Các cơ quan QLNN phối hợp nghiên cứu bổ sung và ban hành các quy định, quy chế về việc xét duyệt, cấp phép hoạt động mới của truyền thông, khai thác thông tin trên mạng Internet quốc tế và đưa sách, báo vào mạng này; nghiên cứu để đổi mới cơ chế quản lý hệ thống các cơ quan truyền thông từ Trung ương đến địa phương, chỉ đạo và quản lý tốt nội dung, phát huy hiệu quả, khắc phục tình trạng chồng chéo, lãng phí cơ sở vật chất kỹ thuật. Đặc biệt là phải thực hiện nghiêm Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt, theo tinh thần các cơ quan cũng cần đổi