Giảm Độ Trễ Trong Điều Hành Chính Sách Tiền Tệ


người sử dụng báo cáo tài chính có sự đảm bảo độc lập rằng kế toán cung cấp thông tin trung thực và hợp lý về tình hình tài chính của công ty và những báo cáo đó được hình thành dựa trên những chuẩn mực kế toán đã được thiết lập; trong đó các kiểm toán viên phải chịu trách nhiệm đối với công việc của họ;

Một bộ máy tư pháp hiệu quả và độc lập, hệ thống kế toán, kiểm toán được kiểm soát tốt và ngành luật phát triển;

Có sự thanh tra, giám sát đầy đủ và hiệu quả các thị trường khác trong nền

kinh tế;


Một hệ thống thanh toán và thanh toán bù trừ an toàn, hiệu quả cho các

giao dịch tài chính trong đó các rủi ro đối tác được kiểm soát.

Nếu các nhân tố trên còn khiếm khuyết thì chúng có thể gây ra tình trạng yếu kém cho hệ thống tài chính và các thị trường khác trong nền kinh tế, hoặc gây ra những cản trở cho sự phát triển của các thị trường đó.

- Thị trường hiệu quả: các chủ thể tham gia thị trường cần phải nắm được thông tin một cách tương đối đẩy đủ, hạn chế tới mức có thể những trường hợp thông tin mất cân xứng làm ảnh hưởng tới quyết định của chủ thể tham gia thị trường. Việc Chính phủ can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng cần phải được xem xét để hạn chế dần.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

- Các cơ chế đáp ứng được việc cung cấp một mức độ hợp lý cho bảo vệ hệ thống (bảo vệ công chúng): Nhìn chung, quyết định mức độ hợp lý cho bảo vệ hệ thống là một câu hỏi chính sách cần được giải đáp bởi các cơ quan quyền lực. Thanh tra ngân hàng đóng góp một vai trò quan trọng vì sự hiểu biết sâu sắc của họ về hệ thống ngân hàng. Sẽ là rất cần thiết để chỉ ra sự khác biệt rõ ràng giữa vai trò bảo vệ hệ thống và vai trò thanh tra các ngân hàng. Khi giải quyết những vấn đề về hệ thống, một mặt cần phải đánh giá chính xác các rủi ro có ảnh hưởng xấu tới sự tự tin của hệ thống tài chính và sự lây lan từ những tổ chức tài chính đã và đang lâm vào tình trạng yếu kém đến các tổ chức tài chính lành mạnh; mặt khác cần tối thiểu hoá sự bóp méo những tín hiệu thị trường. Ở nhiều quốc gia, cơ cấu tổ chức của sự bảo vệ hệ thống bao gồm một hệ thống bảo hiểm tiền gửi. Những hệ thống như vậy nếu được thiết kế tốt nhằm hạn chế rủi ro đạo đức sẽ làm tăng sự tin tưởng của công chúng vào hệ thống tài chính và giảm thiểu sự lan truyền trong cuộc hoảng loạn ngân hàng. Thanh tra ngân hàng tại các quốc gia phát triển đã nghiên cứu và áp dụng nhiều hệ thống thanh tra ngân hàng tiên tiến nhằm nâng cao hiệu quả của thanh tra ngân hàng trong thời kỳ mới khi mà có những thay đổi lớn trên thị trường tài chính và quá trình toàn cầu hóa diễn ra mau chóng, sâu rộng.


Truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 23

3.2.1.5. Giảm độ trễ trong điều hành chính sách tiền tệ

Độ trễ trong điều hành CSTT tại các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam, là khá lớn thể hiện ở cả ba khâu, từ khâu xác định các vấn đề của nền kinh tế đòi hỏi cần có sự can thiệp chính sách cho đến khâu xây dựng và thông qua CSTT phù hợp, và đến khâu cuối cùng là từ lúc chính sách được thực thi cho tới khi phát huy tác động. Không chỉ làm giảm hiệu quả của chính sách, mà việc ban hành chính sách chậm có thể dẫn tới tình trạng phản tác dụng do vào thời điểm CSTT phát huy hiệu lực thì nền kinh tế đã trở lại vị trí ban đầu nhờ cơ chế tự điều chỉnh trong nền kinh tế.

Để giảm thời gian trễ trong điều hành CSTT cần phải tăng cường hiệu quả của công tác thu thập số liệu và xây dựng các mô hình dự báo các chỉ tiêu vĩ mô. Trên cơ sở thông tin và dự báo tốt, NHNN có thể sớm nhận biết được những vấn đề tiềm ẩn của nền kinh tế để nhanh chóng xây dựng và bàn hành các giải pháp phù hợp. Vụ Dự báo và thống kê tiền tệ cần xây dựng mô hình định lượng trong công tác dự báo vĩ mô thông qua các mô hình kinh tế lượng hiện đại trong khi Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng cần xây dựng các mô hình dự báo khủng hoảng ngân hàng, các mô hình kiểm tra sức chịu đựng của hệ thống NHTM... Ví dụ, các mô hình dự báo lạm phát tốt đóng vai trò quan trọng trong việc sớm đưa ra được các biện pháp can thiệp vào thị trường, hạn chế tối đa việc khi chính sách được ban hành thì lạm phát đã ở mức cao hoặc phải sử dụng liều lượng mạnh, ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế.

Đối với việc giảm thời gian từ khi ban hành chính sách đến khi chính sách tác động tới các mục tiêu thì cần phải tăng thực hiện các biện pháp để tăng cường mức độ nhạy cảm của đầu tư và tiêu dùng với lãi suất, mức độ nhạy cảm của cầu tiền đối với lãi suất và cơ chế tăng cường hiệu quả của CSTT thông qua việc lành mạnh hoá tình hình tài chính hệ thống các NHTM và phát triển thị trường liên ngân hàng. Do điều hành CSTT có độ trễ nhất định từ khi ban hành chính sách đến khi chính sách thực sự phát huy hiệu quả (nên thực hiện các chính sách cần phải có sự cam kết thực hiện cũng như thực hiện một cách kiên định trong thời gian dài tương ứng. Nhờ vậy mà các chủ thể trong nền kinh tế nhận thức được mục đích và hành vi của NHTW, từ đó điều chỉnh các hành vi của mình trong điều kiện mới, góp phần giúp CSTT phát huy hiệu quả nhanh hơn. NHNN cũng cần nghiên cứu và xây dựng các mô hình kinh tế lượng về cơ chế truyền tải tiền tệ nhằm tiến hành phân tích và hoạch định CSTT. Sử dụng kết quả của các mô hình này giúp đo lường được mức độ phản ứng của của các mục tiêu trung gian cũng như mục tiêu cuối cùng trước những điều chỉnh của các công cụ CSTT đồng thời khoảng thời gian trễ của các phản ứng này.


3.2.1.6. Đổi mới công tác điều hành chính sách tiền tệ phù hợp với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam vừa tạo ra cơ hội đồng thời đặt ra không ít thách thức đối với công tác điều hành CSTT của NHNN lẫn hiệu quả CSTT. Ảnh hưởng tích cực lấn át ảnh hưởng tiêu cực hay ngược lại phụ thuộc vào diễn biến kinh tế thế giới nhưng phần lớn lại phụ thuộc những thay đổi trong tư duy và biện pháp điều hành CSTT của NHNN cũng như những cải cách để thích ứng với bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế.

Điều hành CSTT của NHNN nhờ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ có những thay đổi tích cực do sự phát triển của thị trường tài chính, của các công cụ CSTT linh hoạt và hoạt động điều hành cũng trở nên độc lập hơn chính bởi đòi hỏi của hội nhập kinh tế. Những thay đổi này có thể giúp công tác điều hành CSTT trở nên linh hoạt, hiệu quả hơn như (i) các công cụ CSTT gián tiếp có điều kiện được sử dụng và phát huy tác dụng; (ii) thị trường tiền tệ và thị trường vốn phát triển mạnh và mang tính toàn cầu; (iii) mức độ độc lập trong điều hành CSTT được tăng cường; (iv) thúc đẩy cải cách hoạt động điều hành CSTT hướng tới các thông lệ và chuẩn mực quốc tế;

(v) tạo ra cơ hội hợp tác, trao đổi thông tin và phối hợp hành động với các NHTW trên phạm vi khu vực và toàn cầu; (vi) kỷ luật ngân sách được tăng cường và điều hành CSTK được thực hiện theo hướng thận trọng hơn để hướng tới mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác điều hành CSTT.

Tuy nhiên, quá trình hội nhập gắn liền với quá trình tự do hoá thị trường tài chính sẽ tạo ra nhiều thách thức. Ngoài những thách thức mà các NHTM phải khắc phục trong việc cạnh tranh để duy trì và mở rộng thị phần cũng đặt ra những thách thức lớn cho NHNN trong việc kiểm soát luồng vốn, điều tiết tiền tệ, lãi suất, tỷ giá trước những tác động thường xuyên và khó lường của thị trường tài chính quốc tế, cũng như sự vận hành của nền kinh tế với quy mô và đặc điểm khác trước khi hội nhập kinh tế quốc tế… Vì vậy, NHNN nhận thức được những khó khăn trong điều hành CSTT và có biện pháp phù hợp: (i) lựa chọn các mục tiêu và thực thi các công cụ CSTT phù hợp khi mức độ tự chủ CSTT bị giảm đi phần nào dưới tác động của hội nhập tài chính; (ii) phát triển thị trường tiền tệ liên ngân hàng và lành mạnh hóa hệ thống NHTM nhằm nâng cao hiệu quả truyền tải khi cơ chế truyền tải CSTT đối mặt với nhiều thách thức như sự gia nhập của các tổ chức tài chính phi ngân hàng, sự biến động của lượng tiền gửi ngoại tệ, mức độ cạnh tranh giữa các NHTM gia tăng…; (iii) kiểm soát lượng cung ứng tiền tệ chặt chẽ trước nguy cơ tiềm ẩn lạm phát cao do nguồn vốn đầu tư gia tăng; (iv) cơ cấu kinh tế thay đổi đòi hỏi điều chỉnh cơ cấu tín dụng từ phía hệ thống NHTM; (v) CSTT trở nên phụ thuộc nhiều hơn vào CSTT của


các quốc gia khác; (vi) nâng cao khả năng dự báo và ứng phó trong bối cảnh thị trường tài chính tiền tệ dễ xảy ra biến động khó lường.

3.2.1.7. Kiểm soát hiệu quả vấn đề thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại

Áp lực huy động vốn đáp ứng nhu cầu mở rộng tín dụng trong bối cảnh thị trường tài chính phát triển không đồng đều dẫn đến thanh khoản của hệ thống NHTM dễ rơi vào tình trạng căng thẳng trước các cú sốc. Hệ thống NHTM phải sử dụng một tỷ trọng lớn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn, huy động vốn trên thị trường liên ngân hàng để cho vay lại với các khách hàng, thiếu hụt các tài sản tài chính có tính lỏng cao khiến cho mỗi khi NHNN thắt chặt CSTT, các ngân hàng nhanh chóng bị thiếu hụt thanh khoản trên phạm vi rộng và phải dựa vào sự hỗ trợ từ phía NHNN để bảo đảm an toàn hoạt động.

Để giải quyết được vấn đề này, NHNN cần kiểm soát được (i) tỷ trọng vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung dài hạn, đầu tư vào trái phiếu dài hạn và các khoản mục có tính chất dài hạn trên bảng cân đối tài sản của ngân hàng; (ii) tình hình đi vay và cho vay của từng ngân hàng trên TTLNH, đặc biệt là các ngân hàng có các khoản mục kể trên chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản, tổng nguồn vốn; (iii) tình hình dự trữ, nắm giữ các tài sản có tính thanh khoản cao so với các khoản nợ ngắn hạn và các khoản nợ tiềm tàng… Khi phát hiện các ngân hàng có dấu hiệu tiệm cận mức rủi ro thanh khoản, NHNN cần triển khai các biện pháp tùy thuộc vào mức độ trầm trọng của vấn đề tại ngân hàng và vị trí của ngân hàng trong hệ thống để lấy lại cân bằng thanh khoản cho ngân hàng. Ngoài ra, trước khi ban hành CSTT, NHNN cần nhận định mức độ ảnh hưởng của việc điều chỉnh chính sách sẽ có tác động như thế nào tới thanh khoản của từng ngân hàng, nhóm ngân hàng và toàn hệ thống do mức độ liên quan trong hệ thống ngân hàng là rất lớn. Khi đã nhận định được mức độ ảnh hưởng, NHNN mới lựa chọn công cụ chính sách và mức độ điều chỉnh phù hợp để triển khai.

Trong bối cảnh phát triển thị trường tài chính tiền tệ như hiện nay, cấp tín dụng trung, dài hạn đối với các dự án xây dựng, kinh doanh bất động sản vẫn xuất phát từ phía hệ thống NHTM là chủ yếu. Đây là hoạt động gây ra nhiều rủi ro đối với hệ thống ngân hàng, trong đó có rủi ro thanh khoản do các dự án này có thời gian thu hồi vốn dài và phụ thuộc nhiều vào tính thanh khoản của thị trường bất động sản. Khi cấp tín dụng cho các dự án loại này (có thể là cho vay chủ đầu tư, nhà thầu, và các khách hàng đầu tư), ngoài việc yêu cầu các NHTM cần đánh giá một cách thận trọng rủi ro thanh khoản và có các biện pháp phòng ngừa phù hợp, NHNN cần phối hợp với Bộ Xây dựng để tăng cường hơn nữa tính minh bạch của thị trường cũng như tăng cường kiểm soát hoạt động này tại các NHTM.


3.2.2. Nhóm giải pháp đối với các ngân hàng thương mại

3.2.2.1. Cơ cấu lại nguồn vốn của các ngân hàng thương mại

Sự yếu kém của hệ thống NHTM thể hiện ở những bất cập từ phía tài sản và nguồn vốn là những nhân tố cản trở công tác truyền tải các công cụ CSTT của NHNN tới nền kinh tế. Không dừng lại ở đó, những bất cập trong hệ thống NHTM còn đe dọa nghiêm trọng tới sự ổn định của hệ thống tài chính và nền kinh tế vĩ mô. Xuất phát từ thực trạng này, hướng tới hoàn thiện vai trò của hệ thống NHTM đối với sự ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển kinh tế bền vững, mà trong ngắn hạn là bảo đảm hiệu quả truyền tải CSTT qua kênh tín dụng, cần phải tiến hành cơ cấu lại toàn diện hệ thống NHTM, trong đó tập trung vào cả hai bên của bảng cân đối tài sản.

Thứ nhất, giảm tỷ trọng nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn

Trước khi có Thông tư số 36/2014/TT-NHNN, các NHTM được phép sử dụng tối đa 30% vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn và vào cuối năm 2014, các tỷ lệ này tại các NHTM đã tiệm cận mức cho phép. Thông tư số 36/2014/TT-NHNN có hiệu lực từ 1/2/2015 đã tăng tỷ lệ tối đa vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn lên 60% và nếu theo dự thảo Thông tư sửa đổi Thông tư số 36/2014/TT-NHNN là mức 40% thì các ngân hàng cũng đều tiệm cận mức quy định này do tỷ lệ này đã tăng đáng kể trong năm 2015. Tuy nhiên, quy định về tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn cần được quy định chặt chẽ hơn để tránh tình trạng dù cùng là cho vay trung dài hạn nhưng khoản vay có thời hạn 5 năm cũng được tính toán như khoản vay có thời hạn 2 năm. Tương tự như vậy đối với nguồn vốn ngắn hạn. NHNN nên quy định một tỷ lệ bình quân gia quyền hoặc sử dụng các trọng số là tỷ trọng các kỳ hạn thực tế của các khoản cho vay trước đây để áp dụng vào tính toán tỷ lệ vốn ngắn hạn tối đa được phép cho vay trung dài hạn. Chỉ tiêu này sẽ phản ánh chính xác hơn sự mất cân đối về kỳ hạn giữa hoạt động huy động và cho vay trên thị trường 1. Trường hợp một ngân hàng vượt quá tỷ lệ tối đa, ngân hàng buộc phải dừng các hoạt động cho vay trung dài hạn và thực hiện các điều chỉnh nhằm đưa tỷ lệ này về mức cho phép sau một khoảng thời gian nhất định.

Thứ hai, phát triển các sản phẩm tiền gửi có kỳ hạn dài

Trong bối cảnh lạm phát tại Việt Nam vẫn ở mức cao và có nhiều biến động, kỳ vọng về lạm phát chưa hoàn toàn kiểm soát được, việc phát triển các sản phẩm tiền gửi với lãi suất thả nổi với phần bù rủi ro thanh khoản ở mức phù hợp là một giải pháp tốt. Thay vì phải trả mức lãi suất huy động luôn có xu hướng biến động mạnh và khó dự đoán, các NHTM có thể trả một mức lãi suất thả nổi nhằm bảo đảm mức mức sinh lời thực cho người gửi tiền. Ngoài ra, một mức phần bù rủi ro thanh khoản cho các khoản tiền gửi có kỳ hạn dài được nghiên cứu trên cơ sở mức độ nhạy cảm của tiền gửi với


biến động lãi suất sẽ hạn chế được tình trạng rút vốn của các khách hàng. Các sản phẩm huy động tiền gửi cần được gắn liền với nhiều dịch vụ ngân hàng không sử dụng tiền mặt cũng là một biện pháp tốt để tạo sự ổn định của lượng tiền gửi.

Thứ ba, tăng cường huy động nguồn vốn trung dài hạn thông qua phát hành giấy tờ có giá

Tỷ trọng giấy tờ có giá trung và dài hạn trong tổng nguồn vốn của hệ thống NHTM ở mức rất thấp, khiến cho áp lực lên huy động nguồn tiền gửi là rất lớn. Mặc dù các khoản tiền gửi tiết kiệm có thể sử dụng để cầm cố vay vốn nhưng các khoản tiền gửi thường có xu hướng bị rút ra khỏi ngân hàng để gửi vào các ngân hàng khác khi có biến động lãi suất, làm ảnh hưởng tới thanh khoản của ngân hàng. Trái lại, với thị trường thứ cấp các giấy tờ có giá, các nhà đầu tư có thể mua bán qua lại mà không làm ảnh hưởng tới thanh khoản của ngân hàng. Các NHTN cần nghiên cứu thị trường và phát triển các sản phẩm huy động vốn là các giấy tờ có giá loại này nhằm rút ngắn khoảng cách kỳ hạn giữa nguồn vốn và tài sản.

Thứ tư, tăng mức vốn chủ sở hữu thông qua tăng vốn điều lệ và lợi nhuận để lại Vốn chủ sở hữu được ví như “tấm đệm” chống đỡ lại rủi ro cho ngân hàng

nhưng lại chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của hệ thống NHTM Việt Nam. Các quy định về đảm bảo an toàn ngân hàng sẽ sớm được nâng cấp toàn diện lên một chuẩn mực mới cao hơn, hướng tới chuẩn mực theo quốc tế. Theo quy định hienẹ nay, vốn điều lệ tối thiểu của hệ thống NHTM là 3 nghìn tỷ đồng và tỷ lệ vốn tự có trên tài sản có rủi ro là 9%. Các NHTM cần đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc ngân hàng, trong đó tập trung vào việc nâng cao năng lực tài chính thông qua việc phát hành thêm cổ phiếu, tìm kiếm các nhà đầu tư chiến lược hoặc thông qua hoạt động mua bán, sáp nhập để tăng vốn điều lệ. Trong thời gian tới, các ngân hàng cần tiến gần hơn tới chuẩn mực, thông lệ quốc tế như tính đến rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động và áp dụng các phương pháp của Basel II khi tính toán rủi ro tín dụng (hiện đang được triển khai thí điểm tại 10 ngân hàng theo Công văn số 1601/NHNN-TTGSNH về việc triển khai thực hiện quy định an toàn vốn theo Basel II ngày 17/03/2014.

3.2.2.2. Hệ thống ngân hàng thương mại chủ động kiểm soát và xử lý nợ xấu

Xuất phát từ nguyên tắc là NHTM và khách hàng vay vốn phải chịu trách nhiệm chính về các khoản nợ xấu phát sinh và chia sẻ tổn thất trong xử lý nợ xấu, các NHTM cần phải khoanh vùng, xử lý nợ xấu đã phát sinh đồng thời hạn chế nợ xấu tiếp tục phát sinh trong tương lai.

a/ Khoanh vùng, xác định và xử lý nợ xấu đã phát sinh và tiềm ẩn phát sinh trong tương lai


Việc xác định chính xác tình trạng nợ xấu về quy mô, đặc điểm, cơ cấu, khả năng thu hồi… đóng vai trò quan trọng để các NHTM xây dựng phương án, lộ trình xử lý nợ xấu phù hợp với khả năng tài chính. Trong thời gian tới, hệ thống NHTM cần tập trung nguồn lực thực hiện các biện pháp sau:

Thứ nhất, các NHTM tiếp tục rà soát, đánh giá lại chất lượng các khoản tín dụng, xác định các khoản nợ xấu

Hệ thống NHTM phải tiến hành phân loại lại chất lượng và khả năng thu hồi của các khoản nợ từ các khoản nợ từ nhóm 1 tới nhóm 5 theo đúng các tiêu chí về phân loại nợ và xếp hạng tín dụng đã được NHNN phê duyệt. Hệ thống NHTM cần phân loại toàn bộ các tài sản có tính chất tín dụng bao gồm cấp tín dụng, đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, ủy thác đầu tư theo mức độ rủi ro; phân loại lại nợ xấu theo loại hình doanh nghiệp, theo các loại TSBĐ; nợ xây dựng cơ bản theo đúng định hướng của Nghị quyết số 02/2013/NĐ-CP, Quyết định số 843/QĐ-TTg. Trên cơ sở đó, các NHTM mới xây dựng và triển khai các nhóm giải pháp xử lý phù hợp với từng loại hình nợ xấu, thực hiện hạch toán kế toán đúng bản chất nợ xấu và trích lập DPRR đầy đủ theo đúng quy định.

Thứ hai, hoàn chỉnh và áp dụng chính sách dự phòng rủi ro phù hợp

Hệ thống NHTM Việt Nam cần phải sử dụng DPRR để xử lý rủi ro và trong bối cảnh khả năng sinh lời của hệ thống đang sụt giảm thì đây là bài toán không hề dễ dàng đối với các NHTM. Do vậy, đẩy mạnh các khoản tín dụng có chất lượng, tăng nguồn thu từ các dịch vụ phi tín dụng và tiết giảm các khoản chi phí là cần thiết để bảo đảm đủ nguồn lực xử lý nợ xấu. Trên cơ sở rà soát, đánh giá lại các khoản cấp tín dụng, các NHTM tích cực trích lập DPRR ở mức phù hợp theo khả năng của từng ngân hàng, nghiêm túc thực hiện Thông tư số 02/2013/TT-NHNN, Văn bản số 7789/NHNN-TTGSNH về trích lập dự phòng và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro.

NHNN cần kiên quyết yêu cầu các NHTM thực hiện nghiêm túc quá trình cơ cấu lại và phân loại các khoản nợ theo đúng quy định tại Thông tư số 02/2013/TT- NHNN nhằm xác định chính xác thực trạng nợ xấu, đánh giá đúng năng lực tài chính của hệ thống NHTM để có cơ sở xác định khả năng xử lý nợ xấu của bản thân các NHTM và các nhiệm vụ hỗ trợ xử lý của các cơ quan quản lý Nhà nước.

Ngoài ra, dựa vào hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, các NHTM cần chấn chỉnh, siết chặt việc xét duyệt cấp tín dụng, quản lý chất lượng tín dụng, từ đó xây dựng chính sách DPRR phù hợp với phạm vi hoạt động và tình hình thực tế cũng như dựa trên khả năng trích lập DPRR để điều chỉnh lại chính sách tín dụng của chính NHTM cho phù hợp.


b/ Triển khai quyết liệt các biện pháp xử lý nợ xấu đã phát sinh

Thứ nhất, cơ cấu lại nợ nhằm hỗ trợ khách hàng có nợ xấu khắc phục khó khăn, phục hồi khả năng trả nợ ngân hàng

Đối với những khách hàng và phương án, dự án sản xuất kinh doanh tạm thời gặp khó khăn, ảnh hưởng tới khả năng trả nợ NHTM nhưng được đánh giá là có khả năng phục hồi, các NHTM cần tạo điều kiện giãn thời gian trả nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ và xem xét miễn, giảm lãi suất một cách hợp lý để doanh nghiệp có vốn hoạt động. Đối với các dự án, công trình đầu tư dở dang và/hoặc sắp hoàn thành, có khả năng phát huy hiệu quả kinh tế, các NHTM cần tiếp tục cho vay, đầu tư để hoàn thiện đưa vào khai thác hoặc bán để thu hồi nợ. Khuyến nghị này xuất phát từ một nguyên tắc trong xử lý nợ xấu là cần phải tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể tiếp tục hoạt động trong tương lai, chỉ khi đó doanh nghiệp mới có thể tồn tại, phát triển và trả nợ ngân hàng.

Tuy nhiên, trong quá trình cơ cấu lại nợ và hỗ trợ khách hàng vay vốn, các NHTM cần chú ý đến công tác kiểm tra, đánh giá năng lực của các doanh nghiệp, để tránh trường hợp tiếp tục cấp vốn vào những phương án, dự án không có khả năng phục hồi. Trong việc cân nhắc, đánh giá các giải pháp cơ cấu lại nợ, các NHTM có thể yêu cầu sự hỗ trợ từ các tổ chức tư vấn cũng như các nguồn lực khác bên ngoài như những tổ chức, cá nhân có kinh nghiệm, chuyên môn cao trong việc xử lý các khoản tín dụng có vấn đề, có khả năng đề xuất những phương án khác nhau trong việc cơ cấu lại nợ, cũng như đánh giá được các lợi ích, chi phí có liên quan đến từng phương án để ngân hàng và doanh nghiệp cùng xem xét, thống nhất.

Thứ hai, về hoàn thiện công tác xử lý tài sản bảo đảm để xử lý nợ xấu

Bản thân các NHTM cần phải chủ động phối hợp với khách hàng để tiến hành rà soát, đánh giá lại TSBĐ và yêu cầu khách hàng bổ sung TSBĐ hợp pháp và đầy đủ theo mức độ rủi ro của khoản tín dụng. Đồng thời, NHTM cần phải phối hợp với khách hàng và các cơ quan, tổ chức liên quan hoàn thiện hồ sơ pháp lý đối với những khoản vay, TSBĐ chưa hoàn thiện hồ sơ pháp lý. Điều này là hết sức cần thiết, đặc biệt là trong tình hình kinh tế nước ta hiện nay, môi trường pháp lý về chế độ kế toán, kiểm toán tài chính đang trong quá trình hoàn thiện, vì thế tính minh bạch, trung thực của báo cáo tài chính, các thông tin của khách hàng cung cấp nhiều khi chưa đủ tin cậy theo đúng quy chế cho vay, làm tăng rủi ro mất vốn cho các NHTM. Vì vậy, để hạn chế được tình trạng rủi ro này, các NHTM phải đặc biệt thận trọng trong việc đánh giá TSBĐ cho các món vay bao gồm việc thẩm định điều kiện tài sản thế chấp, năng lực pháp lý của người thế chấp tài sản, định giá tài sản, tính thanh khoản của tài sản..., từ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/12/2022