Hoàn Thiện Hoạt Động Của Công Ty Quản Lý Tài Sản Của Các Tổ Chức Tín Dụng Việt Nam Để Thúc Đẩy Hoạt Động Mua Và Xử Lý Nợ Xấu


Như vậy, toàn ngành phải xác định được một cơ cấu tín dụng mà ở đó, mức độ rủi ro là tương xứng với khả năng quản trị rủi ro. Việc giảm tỷ trọng cho vay các lĩnh vực không khuyến khích và sau đó là tăng tỷ trọng các lĩnh vực được ưu tiên cần được thực hiện thận trọng nhằm bảo đảm lượng vốn phù hợp cung cấp cho các thị trường như thị trường bất động sản, chứng khoán…, hạn chế gây ra tình trạng “đóng băng” tại các thị trường này, gắn điều chỉnh cơ cấu tín dụng với việc cơ cấu lại các thị trường này theo hướng phát triển bền vững. Đối với những rủi ro mang tính hệ thống và khó kiểm soát, cần có chính sách phát triển những công cụ bảo hiểm rủi ro phù hợp với các tổ chức có khả năng kiểm soát rủi ro tốt. Qua đó, trong trường hợp không có khả năng quản trị rủi ro, NHTM có thể phòng ngừa được rủi ro thông qua việc chuyển cho các tổ chức này.

Thứ hai, NHNN kiểm soát tăng trưởng tín dụng thông qua việc phân tích nhu cầu vốn, khả năng cung ứng vốn và khả năng chấp nhận rủi ro của hệ thống NHTM trong cả ngắn hạn lẫn trung, dài hạn

Trước thực trạng hệ thống ngân hàng còn ở trình độ phát triển thấp, chưa định hình được các phân khúc một cách rõ ràng, các hoạt động cạnh tranh thiếu lành mạnh luôn tiềm ẩn, việc không định hướng rõ ràng và kiểm soát chặt chẽ hạn mức tăng trưởng tín dụng sẽ mang lại những hệ quả tiêu cực cho sự phát triển của từng ngân hàng và toàn hệ thống. Trên khía cạnh vĩ mô, vai trò của vốn tín dụng ngân hàng trong vốn đầu tư toàn xã hội - chỉ tiêu kinh tế có vai trò quyết định trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước, cho thấy trong ngắn hạn đến trung hạn, NHNN cần phải tiếp tục quản lý hạn mức tăng trưởng tín dụng cho toàn nền kinh tế. Thực tiễn đã cho thấy việc đề ra nhưng không kiểm soát được tăng trưởng tín dụng những thời kỳ điển hình như năm 2006 - 2008 và 2010 đã để lại những hệ quả không mong muốn cho hệ thống ngân hàng và toàn nền kinh tế. Để tăng trưởng tín dụng hướng tới ổn định kinh tế vĩ mô (vừa bảo đảm đủ vốn cho nhu cầu đầu tư, tiêu dùng, vừa không gây ra tình trạng lạm phát, nợ xấu), NHNN nên xác định và điều hành tốc độ tăng trưởng tín dụng cho một giai đoạn dài hạn. Hàng năm, NHNN đưa ra định hướng chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng bám sát mục tiêu trong trung dài hạn, kết hợp với việc điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện thực tế.

Mức tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng cần được xác định hợp lý và hài hòa trong mối quan hệ tổng thể phân bổ nguồn lực tài chính quốc gia và gắn phân bổ nguồn vốn tín dụng ngân hàng với tín hiệu thị trường và hạn chế sự can thiệp của Chính phủ. Tỷ trọng vốn phân bổ qua cơ chế thị trường từng bước phải được nâng lên phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế; xác định một cấu trúc tài chính phù hợp có tác dụng thúc đẩy bền vững kinh tế. Như vậy, tín dụng ngân hàng trong bối


cảnh phát triển hệ thống tài chính hướng tới cấu trúc cân đối, chủ yếu đóng vai trò cung ứng vốn ngắn hạn, và vốn dài hạn được phân bổ thông qua thị trường cổ phiếu và trái phiếu.

Nguồn vốn tín dụng cần được xác định trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, hài hòa với các nguồn vốn đầu tư khác như vốn đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư nước ngoài, vốn đầu tư từ bản thân chủ sở hữu của các doanh nghiệp... NHNN cần phối hợp chặt chẽ với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để xác định quy mô vốn tín dụng để đáp ứng các mục tiêu kinh tế xã hội trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm năm được Quốc hội thông qua.

Hàng năm, NHNN đánh giá năng lực tài chính và năng lực quản trị rủi ro tín dụng của các NHTM, yêu cầu các NHTM xây dựng phương án về tăng trưởng tín dụng, cải thiện chất lượng hoạt động tín dụng, khả năng vốn để đáp ứng tăng trưởng tín dụng. Trên cơ sở đó, NHNN đánh giá tổng thể kế hoạch của toàn hệ thống và có các biện pháp điều chỉnh, hỗ trợ cho phù hợp. Các NHTM từng quý có báo cáo kết quả, đánh giá và kiến nghị đối với NHNN để có biện pháp điều chỉnh hợp lý. Việc ban hành một kế hoạch về tăng trưởng tín dụng trong trung hạn, song song với chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng hàng năm, sẽ mang lại những ích lợi đối với công tác điều hành CSTT và quản lý tín dụng của các NHTM.

Một là: tăng cường sự phối hợp giữa điều hành chính sách tiền tệ - tín dụng với các chính sách vĩ mô quan trọng khác như thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đầu tư công… Cơ chế phối hợp này giúp cho các nguồn vốn được huy động, phân bổ và giám sát một cách hiệu quả hơn, tránh được tình trạng vốn đầu tư tăng vọt trong một thời kỳ, dẫn tới tình trạng tăng trưởng quá nhanh của nền kinh tế.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

Hai là: việc đưa ra chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng trong ngắn hạn trên cơ sở bám sát mục tiêu dài hạn sẽ giúp công tác điều hành tín dụng của NHNN ổn định hơn, gắn chặt chẽ hơn với các công tác điều hành khác liên quan tới lãi suất, cung tiền, tỷ giá, thanh toán, thanh tra giám sát ngân hàng.

Ba là: trên cơ sở tăng trưởng tín dụng dài hạn do NHNN đề ra cho toàn ngành, bản thân các NHTM sẽ có những hoạch định phù hợp về tăng trưởng tín dụng cho mình. Điều này sẽ giúp các NHTM kiểm soát tăng trưởng tín dụng tốt hơn trước đây khi tránh khỏi tình trạng tăng trưởng tín dụng quá cao trong một vài năm và phải gánh chịu hậu quả chất lượng tín dụng suy giảm trong giai đoạn sau đó.

Truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 21

Bốn là: một mục tiêu phù hợp về tăng trưởng tín dụng sẽ giúp định hướng kỳ vọng của công chúng vào điều hành chính sách của NHNN và chính sách tín dụng của NHTM. Điều này sẽ khiến công chúng điều chỉnh hành vi đầu tư và tiêu dùng, góp phần thúc đẩy hiệu quả và tiến độ của quá trình hướng tới các mục tiêu CSTT.


Thứ ba, xác định và định hướng tín dụng vào các lĩnh vực phát triển ổn định và có khả năng hấp thụ vốn tốt trong bối cảnh kinh tế chưa phục hồi bền vững.

Nông nghiệp nông thôn, sản xuất hàng xuất khẩu là những lĩnh vực tiêu biểu mà NHNN có thể tiếp tục chỉ đạo hệ thống NHTM hướng dòng vốn tín dụng, đặc biệt là vốn tín dụng trung dài hạn trong thời gian tới thông qua các biện pháp hỗ trợ phù hợp. Để những chính sách này được triển khai rộng khắp vào thực tiễn, NHNN cần thực hiện các biện pháp hỗ trợ đối với các NHTM tham gia vào các lĩnh vực này như cho phép các ngân hàng được vay tái cấp vốn với lãi suất ưu đãi, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng có tỷ trọng dư nợ tín dụng cao đối với các lĩnh vực ưu tiên cao… và dần chuyển sang các hỗ trợ phi tài chính như quy định về điều kiện được vay tái cấp vốn, về mạng lưới hoạt động… Lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn có tốc độ tăng trưởng tốt, ít nhạy cảm với biến động kinh tế vĩ mô, nhưng vẫn thiếu hụt nguồn vốn tín dụng phù hợp để có thể tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Theo đó, cần có những nguồn vốn có quy mô lớn, thời hạn dài để các doanh nghiệp đầu tư, phát triển những mô hình trang trại có quy mô (tạo ra lợi thế về quy mô), ứng dụng công nghệ cao, từ đó tạo ra sức bật đối với sự phát triển của lĩnh vực này. Bên cạnh đó, tiếp tục xây dựng mô hình thí điểm ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ mới vào cơ giới hóa nông nghiệp ví dụ mô hình cơ giới hóa đồng bộ sản xuất lúa, sản xuất rau an toàn, chăn nuôi bò sữa…

Để xác định thêm các lĩnh vực có tiềm năng tăng trưởng khác nhưng bảo đảm điều chỉnh cơ cấu tín dụng hợp lý, NHNN tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, hiệp hội ngành nghề nhằm xác định những lĩnh vực kinh tế tiềm năng của đất nước trong thời gian tới nhằm đẩy mạnh tín dụng cho lĩnh vực này, góp phần tạo ra bước đột phá thực sự trong phát triển kinh tế, thực hiện nhiệm vụ tái cấu trúc nền kinh tế. Để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng tín dụng có kế hoạch và gắn với thực tế, Chính phủ cần phối hợp các bộ ngành để đưa ra mục tiêu phát triển các lĩnh vực, ngành, vùng miền kết hợp với mục tiêu cuối cùng về lạm phát, tăng trưởng kinh tế để từ đó xây dựng mục tiêu tăng trưởng tín dụng gắn với cơ cấu tín dụng phù hợp. Điều này đỏi hòi cần có một cơ chế phối hợp được thiết lập cụ thể, rõ ràng giữa NHNN (xây dựng và ban hành các chính sách tín dụng), các NHTM (thực hiện các chính sách tín dụng), Bộ Công Thương (quản lý các ngành nghề), Bộ Kế hoạch và đầu tư (quản lý cấp phép các dự án đầu tư), và các Bộ quản lý chuyên ngành như Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn… Cơ chế phối hợp được xây dựng nhằm hướng tới việc trao đổi thông tin kịp thời, chính xác về tình hình hoạt động của các lĩnh vực, ngành nghề có tiềm năng phát triển, có nhu cầu vay vốn để ngành Ngân hàng hướng nguồn vốn tín dụng tới đúng chỗ và đúng thời điểm. Bên cạnh đó, những khó khăn, tồn tại trong việc


tiếp cận và sử dụng vốn cũng sẽ được chia sẻ giữa các bên để tìm kiếm những biện pháp điều chỉnh lại cơ cấu tín dụng, cơ cấu lại nợ, và các biện pháp hỗ trợ khác. Như vậy, xây dựng cơ cấu tín dụng cần có sự hỗ trợ đồng bộ từ các cơ quan ban ngành có liên quan, lên kế hoạch tổng hợp từ trên để từ đó giúp cho ngành ngân hàng triển khai nhất quán.

Thứ tư, để khuyến khích tăng trưởng tín dụng từ phía cầu và giảm mức độ rủi ro tín dụng ngay từ khi thẩm định, quyết định cho vay, ngành Ngân hàng có thể nghiên cứu và triển khai các sản phẩm tín dụng phù hợp với đặc thù của từng lĩnh vực

Việc làm này là nhằm tăng khả năng mở rộng tín dụng cũng như hiệu quả tín dụng như các gói sản phầm ưu đãi về lãi suất vay vốn, gói sản phẩm tín dụng dựa trên chuỗi liên kết từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ; cho vay theo dòng tiền; hỗ trợ khách hàng lập phương án sản xuất - kinh doanh, dự án đầu tư hợp lý, tìm kiếm thị trường đầu ra cho sản phẩm, dịch vụ; cho vay liên kết giữa chủ đầu tư, nhà thầu xây dựng, nhà cung cấp vật liệu xây dựng và người mua nhà… Trong bối cảnh hiện nay, sự hợp tác giữa các NHTM trong việc triển khai các sản phẩm tín dụng này là chưa cao, khiến cho việc hình thành một chuỗi sản xuất liên kết trở nên khá khó khăn. Do vậy, vai trò của NHNN phải là đơn vị đi đầu để tạo lập một khung hợp tác nhằm chia sẻ thông tin, nguồn lực giữa các NHTM. Biện pháp phát triển gói sản phẩm tín dụng dựa trên chuỗi liên kết và tìm kiếm thị trường đầu ra đa dạng cho sản phẩm sẽ giúp khách hàng vay vốn hạn chế được những rủi ro trong quá trình giao dịch sản phẩm, dịch vụ, hạn chế rủi ro tín dụng cho bản thân khách hàng và sau đó là NHTM. Biện pháp hỗ trợ khách hàng lập phương án sản xuất - kinh doanh, dự án đầu tư sẽ giúp NHTM hiểu hơn về khoản vay, đặc biệt là các rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra, từ đó có các giải pháp kiểm soát rủi ro phù hợp và kịp thời.

3.2.1.2. Hoàn thiện hoạt động của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam để thúc đẩy hoạt động mua và xử lý nợ xấu

VAMC chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7/2013 và bắt đầu mua nợ xấu 9/2013 đã có đóng góp tích cực vào công tác xử lý nợ xấu của hệ thống NHTM, góp phần lớn vào việc đưa tỷ lệ nợ xấu về dưới mức 3% vào cuối năm 2015 theo đúng kế hoạch. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quá trình mua và xử lý nợ xấu, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định 34/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 53/2013/NĐ-CP, trao quyền và lợi ích nhiều hơn cho VAMC trong hoạt động của mình. Trong thời gian tới, trước áp lực tiếp tục mua từ các NHTM, huy động các nguồn lực để mua nợ xấu theo giá thị trường, cũng như để thực hiện hiệu quả việc xử lý nợ xấu đã mua, tạo điều kiện cho hệ thống NHTM mở rộng tín dụng, cần phải bổ sung và hoàn thiện các nội dung sau cho VAMC bao gồm: (i) hoàn thiện


khuôn khổ pháp lý; (ii) hoàn thiện chức năng, hoạt động; và (iii) cải thiện môi trường xử lý nợ xấu.

Thứ nhất, về cơ sở pháp lý của VAMC

Cơ sở pháp lý của VAMC đóng vai trò quan trọng tới sự thành công của quá trình xử lý nợ xấu. Theo đó, công tác chuyển nhượng các khoản nợ xấu từ các NHTM cần phải được quy định rõ ràng với hành lang pháp lý thông thoáng nhất để tạo điều kiện cho các giao dịch mua bán nợ xấu này diễn ra nhanh chóng. Những trở ngại pháp lý cho việc chuyển giao nợ xấu cần được loại bỏ, ví dụ như việc bắt buộc phải có sự đồng ý của khách hàng trước khi chuyển giao các khoản nợ xấu cho VAMC hay VAMC không phải đang ký thay đổi bên nhận bảo đảm trong hợp đồng bảo đảm khi mua lại khoản nợ xấu từ NHTM.

Để tăng cường hiệu quả của quá trình xử lý nợ xấu, cần phải giám sát hợp nhất các NHTM, tránh trường hợp các NHTM bán các khoản nợ xấu cho các công ty AMC trực thuộc với mức giá cao hơn mức giá hợp lý. Nghiệp vụ này thường được các NHTM áp dụng như một biện pháp "làm đẹp" tình hình tài chính của mình. Một biện pháp mà cơ quan giám sát có thể áp dụng là yêu cầu các NHTM tính toán hệ số an toàn vốn trên phương diện hợp nhất bao gồm cả các AMC con của ngân hàng.

Thứ hai, về công tác quản trị công ty của VAMC

Quản trị công ty tốt là yếu tố cần thiết để bảo đảm hiệu quả hoạt động của VAMC. VAMC cần có một Hội đồng thành viên bao gồm các thành viên từ đơn vị chủ quản, đại diện của các cơ quan của Chính phủ, và không thể thiếu các thành viên độc lập từ bên ngoài. Về các tiêu chí lựa chọn thành viên của Hội đồng thành viên của VAMC, thành viên được bổ nhiệm phải là người có học vấn và kinh nghiệm ở cấp độ cao trong một hoặc nhiều hơn một lĩnh vực bao gồm: a) Tài chính và kinh tế; b) Pháp luật; c) Kế toán và kiểm toán; d) Hành chính công; e) Quản trị tín dụng; f) Dự án đầu tư; g) Đầu tư và phát triển BĐS; h) Quản lý và kinh doanh BĐS; i) Định giá; j) Quy hoạch đô thị; k) Ngân hàng và đầu tư; l) Phá sản và tái cơ cấu; m) Quản trị rủi ro. Hội đồng thành viên cần có tối thiểu 03 thành viên độc lập từ bên ngoài (các trung tâm nghiên cứu của Chính phủ, kiểm toán Nhà nước, hiệp hội doanh nghiệp...).

Quốc hội cần có cơ chế kiểm toán thường xuyên thông qua kiểm toán Nhà nước (bên cạnh thanh tra của Chính phủ) hoặc kiểm toán độc lập đối với hoạt động của VAMC để bảo đảm VAMC thực hiện nghiêm túc và hiệu quả những nhiệm vụ được giao. Bản thân VAMC cần công bố các báo cáo tài chính, quy trình và phương pháp xử lý nợ định kỳ thông qua các hình thức họp báo, đăng tải thông tin trên các phương tiện đại chúng (đến nay vẫn có rất ít thông tin về hoạt động của VAMC được công bố trên website của tổ chức này).


Thứ ba, về tiêu chí mua các khoản nợ xấu từ các tổ chức tín dụng của VAMC Về nguyên tắc, VAMC chỉ nên mua những khoản nợ xấu mà VAMC có thể xử

lý hiệu quả hơn là để tự các NHTM xử lý. Ví dụ, các tài sản cố định như tài sản bị tịch thu và các khoản vay yêu cầu tịch thu nhà là những lựa chọn tốt cho việc chuyển nhượng cho VAMC xử lý. Mặt khác, các khoản nợ xấu mà NHNN nhận thấy bản thân có khả năng tự tái cơ cấu và những khách hàng mà các NHTM muốn duy trì mối quan hệ lâu dài thì có thể để lại để các NHTM tự xử lý. Các khoản nợ xấu với quy mô nhỏ, mà tự bản thân NHTM có thể thực hiện thu hồi tốt hơn VAMC, cũng nên được để lại cho các ngân hàng tự xử lý.

Để đạt được lợi thế kinh tế nhờ quy mô, VAMC nên chuyển tất cả các khoản nợ có liên hệ với nhau (ví dụ, các khoản vay của cùng một khách hàng, một nhóm khách hàng hoặc các khoản vay liên quan đến cùng một loại tài sản thế chấp) thành một nhóm và mua các khoản nợ này từ phía các NHTM. Do vậy, việc áp dụng nghiêm ngặt Thông tư số 02/2013/TT-NHNN là một việc làm hết sức cần thiết để cùng lúc các ngân hàng có thể nhận định chính xác chất lượng khoản nợ của doanh nghiệp, có các biện pháp xử lý nợ xấu kịp thời.

Các khoản nợ xấu của một doanh nghiệp, cá nhân tại các NHTM khác nhau cần được đánh giá và xử lý đồng thời, bất kể trường hợp khoản nợ tại một hoặc một số NHTM không được phân loại vào nhóm nợ xấu. Cơ chế này sẽ tạo điều kiện để thực hiện tái cấu trúc toàn diện doanh nghiệp, bảo đảm xử lý dứt điểm các khoản nợ xấu.

Để việc lựa chọn các khoản nợ xấu được mua lại mang lại hiệu quả cao, VAMC nên tập trung vào xử lý các khoản nợ xấu của tư nhân hơn là các khoản nợ xấu của các doanh nghiệp Nhà nước. Kinh nghiệm xử lý nợ xấu tại các quốc gia trên thế giới cho thấy việc AMC quốc gia bị yêu cầu xử lý các khoản vay theo chỉ định của Chính phủ, thường không mang lại hiệu quả cao.

Thứ tư, về giá mua các khoản nợ xấu của VAMC

Việc mua các khoản nợ xấu của VAMC theo giá thị trường và giá gốc (đã trừ khoản trích lập DPRR) bằng trái phiếu đặc biệt đồng thời yêu cầu các NHTM trích lập DPRR cho các trái phiếu này là một phương án phù hợp với điều kiện kinh tế hiện nay cũng như mục đích của NHNN về tái cơ cấu hệ thống NHTM gắn với tái cơ cấu các doanh nghiệp, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Điều này hạn chế được những bất cập khi giá mua nợ xấu cao hơn giá trị thị trường sẽ dẫn tới khả năng các NHTM bán hẳn cho VAMC số tài sản xấu rất lớn và hình thành tâm lý đẩy nhanh các khoản nợ xấu ra khỏi bảng cân đối kế toán mà không có trách nhiệm xử lý các khoản nợ này.

Đối với mua nợ xấu theo giá thị trường mà VAMC sẽ tiến hành trong thời gian tới đây, thường rất khó để định giá tài sản xấu (đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng


tài chính), dựa trên khả năng phục hồi, dự báo dòng tiền (với tỷ lệ chiết khấu phù hợp), và thẩm định tài sản thế chấp, VAMC nên xác định một giá trị xấp xỉ của các khoản nợ và sử dụng cho mục đích của việc chuyển giao. Do thời gian là một vấn đề luôn được quan tâm trong công tác xử lý nợ xấu và số lượng các khoản nợ xấu là rất nhiều, việc chuyển giao sẽ diễn ra tại mức giá ban đầu với thỏa thuận rõ ràng giữa bên bán và bên mua về mức giá cuối cùng của giao dịch được xác định sau khi giá trị của các tài sản được VAMC đã được xử lý hoàn toàn. Ngoài ra, chuyển giao tài sản cho VAMC tại mức giá thị trường đòi hỏi VAMC thực hiện một mục tiêu rõ ràng là thu hồi lại số vốn bỏ ra ban đầu. Những hạn chế của phương pháp này là nó có thể làm giảm một phần mong muốn bán các khoản nợ xấu cho VAMC do cả lợi ích và rủi ro chưa được xác định chính xác tại thời điểm chuyển giao khoản nợ xấu. Trong trường hợp này, một số thỏa thuận chia sẻ lợi nhuận hoặc thua lỗ giữa VAMC và các NHTM có thể giúp khắc phục vấn đề. Cần chú ý việc đưa ra một mức giá, hay một tỷ lệ thanh toán, cho một loạt các khoản nợ xấu mặc dù đem lại sự đơn giản hóa và chuẩn hóa các quá trình định giá lại có thể mang lại những bất lợi nhất định. Ví dụ, một hệ thống ở tất cả các mức giá thống nhất được áp dụng cho các khoản vay không có bảo đảm trong cùng một danh mục nợ xấu có thể sẽ khiến các NHTM lựa chọn bán các khoản nợ có giá trị thấp nhất cho VAMC.

Trong trường hợp giữa VAMC và các NHTM không đi đến một thỏa thuận về giá thị trường của các khoản nợ xấu, một tổ chức độc lập sẽ có trách nhiệm đánh giá khách quan khoản nợ xấu này, và hai bên phải chấp nhận mức giá do tổ chức độc lập đưa ra. Ngoài ra, VAMC và các NHTM có thể thỏa thuận với một mức giá bằng bình quân mức giá các khoản nợ xấu tương tự đã được mua theo giá thị trường, đi kèm với một cam kết khi thực hiện xử lý xong, các khoản lãi, hoặc lỗ từ việc xử lý sẽ được phân chia lại theo một tỷ lệ nhất định. Điều này là cần thiết nhằm đẩy nhanh tiến độ xử lý các khoản nợ xấu.

Việc xác định giá bán các khoản nợ xấu đã mua theo giá thị trường cho các nhà đầu tư cũng là một vấn đề cần được lưu tâm. Nếu như quá trình xác định giá không hợp lý, khả năng xảy ra thua lỗ cho VAMC sẽ rất cao, đặc biệt là trường hợp các thương vụ mua bán kéo dài trong khi các tài sản bảo đảm bị hư hỏng, lỗi thời. Trong trường hợp như vậy, VAMC sẽ trở nên rất ngần ngại trong việc mua và bán nợ xấu do lo ngại bị thua lỗ và khiến cho VAMC bị âm vốn điều lệ (tức là làm giảm phần vốn nhà nước tại tổ chức này).

Thứ năm, về quá trình chuyển giao nợ xấu từ các tổ chức tín dụng tới VAMC Khi VAMC mua nợ xấu để hỗ trợ các NHTM thua lỗ nhưng vẫn có thể tiếp tục

hoạt động, việc chuyển giao nên được thực hiện một lần duy nhất, không được lặp lại


trong thời gian dài. Một thỏa thuận chuyển giao để ngỏ không hạn chế có thể tạo ra các vấn đề rủi ro đạo đức trong tương lai, làm giảm đi chất lượng tín dụng của NHTM.

Một khía cạnh quan trọng của quá trình chuyển giao liên quan đến việc cung cấp thông tin, tài liệu cũng như các hồ sơ về tài sản, đặc biệt là khi số lượng tài sản mà VAMC tiếp quản là lớn. VAMC không nên chấp nhận mua các khoản vay mà các tài liệu về các khoản vay và người đi vay, đánh giá nội bộ của các khoản vay, kế hoạch kinh doanh và tài sản thế chấp không đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu về mặt pháp lý.

Cuối cùng, để bán thành công các tài sản, VAMC cần phải tìm hiểu xem cá nhân hay pháp nhân nào là chủ sở hữu của khoản vay này nhằm tránh những khiếu nại có thể xảy ra, làm chậm quá trình xử lý các khoản nợ xấu.

Thứ sáu, về nguồn vốn sử dụng để mua nợ xấu của VAMC

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy toàn bộ nguồn tài trợ cho AMC thuộc sở hữu của Chính phủ không nên chỉ huy động từ mỗi ngân sách, đặc biệt là khi các quy mô của các khoản nợ xấu là tương đối lớn. Trong điều kiện ngân sách gặp khó khăn hiện nay và trên nguyên tắc gắn trách nhiệm xử lý nợ xấu với nguồn gốc phát sinh nợ xấu, VAMC phát hành trái phiếu đặc biệt để mua lại nợ xấu từ phía các NHTM là một giải pháp hoàn toàn phù hợp. Đặc điểm của các trái phiếu này là có thể dùng để vay tái cấp vốn từ phía NHNN với lãi suất ưu đãi trên tối đa 70% mệnh giá trái phiếu và các NHTM phải tiến hành trích lập dự phòng rủi ro cho các trái phiếu đặc biệt này. Các quy định tại Nghị định số 53/2013/NĐ-CP là một giải pháp hoàn toàn phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, áp lực huy động vốn đối với VAMC được giảm thiểu cũng như NHNN có thể chủ động điều tiết lượng tiền cung ứng, tạo ra sự phối hợp đồng bộ với CSTT. Song song với đó, việc tăng vốn điều lệ cho VAMC lên 2000 tỷ đồng (đã có đề xuất tiếp tục tăng vốn điều lệ cho VAMC – chưa chính thức) để tổ chức này mua nợ theo giá thị trường cũng như phát hành trái phiếu để mua nợ theo giá thị trường (tại Nghị định số 34/2015/NĐ-CP) đã được triển khai nhưng phải đẩy nhanh tiến độ mua và xử lý để có thể quay vòng vốn nhanh chóng, vừa tăng tính hiệu quả, kịp thời của việc mua nợ, tạo lập một thị trường mua bán nợ không chỉ cho hiện tại mà là tiền đề cho giai đoạn xử lý nợ xấu sau này.

Trong thời gian tới, Chính phủ, NHNN cần xem xét cho phép VAMC bán các khoản nợ xấu đã mua cho các nhà đầu tư quốc tế thông qua việc ban hành các cơ chế chặt chẽ để vừa xử lý được các khoản nợ, thu hút được nguồn vốn, nhưng đảm bảo được quyền lợi của nhà đầu tư, các khách hàng có nợ xấu nói riêng cũng như sự ổn định của hệ thống tài chính, nền kinh tế Việt Nam nói chung. Nếu không tìm được các nhà đầu tư với nguồn vốn dồi dào và khả năng xử lý nợ chuyên nghiệp thì rất khó có khả năng tìm kiếm được nhà đầu tư trong nước có đủ khả năng tài chính và chuyên

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/12/2022