Dần Hạn Chế Các Biện Pháp Hành Chính Trong Điều Hành Lãi Suất, Hướng Tới Sử Dụng Các Công Cụ Gián Tiếp


môn để xử lý các khoản nợ này. Rất có thể, chính các NHTM sẽ là nhà đầu tư chủ chốt vào các trái phiếu mà VAMC phát hành (đặc biệt là trong trường hợp trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và mức lãi suất sau khi loại bỏ yếu tố rủi ro là cao hơn so với lãi suất cho vay ra nền kinh tế). Như vậy, nguồn vốn thu được từ việc bán các khoản nợ xấu ít có khả năng được đưa vào cấp vốn cho nền kinh tế.

Thứ bảy, về công tác xử lý các khoản nợ xấu đã mua được từ các tổ chức tín dụng của VAMC

Ngay từ trước khi VAMC mua được các khoản nợ xấu từ các NHTM, VAMC đã cần phải phân loại các khoản nợ xấu vào các nhóm khác nhau nhằm tạo điều kiện cho việc quản lý cũng như xử lý các khoản nợ này. Đối với mảng xử lý nợ xấu đã mua, hoạt động của VAMC nên được chia thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất là nhóm đánh giá xem các khoản nợ xấu có thể tiếp tục duy trì tín dụng hay không. Trong trường hợp khoản vay có khả năng phục hồi thì nhóm thứ nhất sẽ tiến hành các biện pháp như điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, thời hạn trả nợ, thay đổi mức lãi suất, thậm chí miễn giảm một phần hay toàn bộ lãi, bán lại khoản nợ đã mua cho một NHTM khác, chuyển nợ thành vốn góp, vốn cổ phần… Trường hợp khoản nợ không thể duy trì được, nhóm thứ hai sẽ đề xuất thỏa thuận với các bên liên quan để xử lý TSBĐ, hoặc nếu không đạt được thỏa thuận thì TSBĐ sẽ được đem ra bán đấu giá.

Ngoài ra, nhằm đạt được tỷ lệ thu hồi vốn tối đa, VAMC cần phải xử lý khoản nợ xấu phù hợp với các điều kiện thị trường, đặc biệt là thị trường bất động sản khi mà tiêu chí ưu tiên xử lý nợ xấu là có bảo đảm bằng bất động sản. Trong trường hợp khoản vay đang trong giai đoạn thực hiện và giá trị tài sản nếu được xử lý ngay sẽ mang lại hiệu quả sinh lời thấp, các NHTM và VAMC có thể tạo điều kiện tiếp tục cấp vốn cho dự án này để khi thực hiện xử lý tài sản, đem lại hiệu quả cao nhất. Cần chú ý rằng việc xử lý nhanh các TSBĐ chỉ nên áp dụng với các tài sản có mức độ khấu hao nhanh như máy móc, thiết bị, hàng tồn kho...

Nhằm tối đa hóa giá trị thu hồi từ các khoản nợ xấu, hoặc từ thanh lý các TSBĐ, việc phát mại các tài sản này có thể ảnh hưởng đến thị trường tài sản. Mục tiêu xử lý nhanh chóng và thu hồi tiền từ các khoản nợ xấu đã mua sẽ tạo ra một lượng cung lớn trên thị trường, khiến cho tỷ lệ thu hồi vốn bị giảm xuống. Tuy nhiên, cần nhìn nhận rằng việc tích trữ các tài sản này mà không xử lý ngay thì các TSBĐ vẫn được thị trường nhận thức và phản ánh vào mức giá cả trên thị trường tài sản, nên AMC vẫn nên tập trung vào xử lý càng nhanh càng tốt các khoản.

Ngoài ra, khả năng thành công của công ty quản lý tài sản không chỉ phụ thuộc vào các yếu tố từ bên trong mà còn chịu ảnh hưởng yếu tố bên ngoài bao gồm:


Thứ nhất, hệ thống pháp luật về quyền lợi của người cho vay hiệu quả

Hệ thống pháp luật cần phải xác định rõ các quyền của chủ sở hữu và các nghĩa vụ giữa NHTM và khách hàng, có khả năng giải quyết thỏa đáng tranh chấp giữa các bên, và tạo điều kiện thông thoáng cho việc xử lý tài sản thế chấp. Một vị thế pháp lý tốt dành cho chủ nợ là yếu tố cần thiết cho việc xử lý thành công các khoản nợ xấu nên các thủ tục pháp lý đầy đủ, rõ ràng, và nhanh gọn là điều hết sức quan trọng. Cũng không kém phần quan trọng chính là các bộ luật tạo điều kiện cho NHTM hoặc VAMC thực hiện quyền của chủ nợ với các khoản nợ, TSBĐ và thu nợ từ việc thanh lý các TSBĐ nếu như khoản nợ không có khả năng được hoàn trả. Hơn thế nữa, các công ty quản lý tài sản để thu hồi được giá trị tài sản một cách tối đa thì điều quan trọng là nó phải có quyền đương nhiên bán tài sản thế chấp mà không cần sự đông ý của khách hàng. Hệ thống luật phá sản chặt chẽ và được thực thi hiệu quả, thông qua việc cung cấp một khuôn khổ để giải quyết có hiệu quả các khoản nợ xấu, có thể giúp tăng cường kỷ luật tín dụng bằng cách hạn chế tình trạng những khách hàng có nợ xấu cố tình trốn tránh thực hiện nghĩa vụ với NHTM.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

Thứ hai, xây dựng và áp dụng một khuôn khổ hoạt động ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế một cách hiệu quả

Khuôn khổ này sẽ đẩy nhanh quá trình và hỗ trợ công tác quản lý các khoản nợ xấu. Đơn cử, một hệ thống phân loại nợ tốt sẽ cho phép cơ quan quản lý đánh giá quy mô và chất lượng các khoản nợ xấu, và ngược lại xử lý nợ xấu không thể đạt được mục tiêu khi các tổ chức này cố tình che giấu các khoản nợ xấu. Mức trích lập dự phòng quy định thích hợp, phản ánh đúng giá trị của nợ xấu, là cần thiết để ngăn chặn các tổ chức tài chính tiếp tục nắm giữ các tài sản này mà không có các biện pháp xử lý kịp thời và thỏa đáng, khiến thị trường các tài sản thực lẫn tài chính rơi vào trạng thái đình trệ.

Truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 22

Thứ ba, thiết lập một khung thuế phù hợp cho hoạt động xử lý nợ xấu

Một khung thuế thuận lợi sẽ có tác dụng thúc đẩy các giao dịch tài chính và quá trình tái cấu trúc NHTM. Ví dụ, để tạo thuận lợi cho việc xử lý các khoản nợ xấu, thuế giao dịch tài chính cần được loại bỏ, và nếu cần thiết, được thay thế bởi các loại thế dựa trên thu nhập phát sinh từ các giao dịch tài chính này. Ngoài ra, việc cho phép giảm trừ thuế đối với các khoản trích lập dự phòng sẽ khuyến khích hơn nữa các NHTM ghi nhận chính xác mức độ nợ xấu.

Thứ tư, tạo lập một môi trường vĩ mô ổn định

Môi trường vĩ mô ổn định sẽ tạo điều kiện giảm thiểu những rủi ro khác ảnh hưởng tới quá trình xử lý nợ xấu. Đơn cử trường hợp các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các khoản nợ xấu thì việc duy trì tỷ giá ở mức ổn định, có thông báo trước sẽ


khuyến khích các nhà đầu tư hơn. Lãi suất được duy trì ở mức thấp sẽ hỗ trợ quá trình xử lý nợ xấu khi các chủ thể đầu tư, nắm giữ các tài sản này sẽ giảm được chi phí tồn đọng vốn tại các khoản nợ xấu.

3.2.1.3. Dần hạn chế các biện pháp hành chính trong điều hành lãi suất, hướng tới sử dụng các công cụ gián tiếp

Việc áp dụng cơ chế can thiệp mang tính hành chính lên lãi suất thị trường chỉ có tác dụng trong thời gian ngắn khi mà mức độ phát triển của thị trường tài chính còn sơ khai, các công cụ kiểm soát gián tiếp chưa phát huy được hiệu quả, năng lực kiểm soát thị trường tài chính của NHTW còn hạn chế… Về dài hạn, việc kiểm soát lãi suất trực tiếp sẽ dẫn tới sự phát triển méo mó của thị trường tài chính, và dẫn tới sự mất ổn định của nền kinh tế do lãi suất là một biến số có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của nền kinh tế.

Từ tháng 6/2002, NHNN đã áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận, xóa bỏ biên độ khống chế lãi suất cho vay, cho phép các NHTM và khách hàng tự thỏa thuận lãi suất cho vay. Tuy nhiên từ năm 2007, NHNN đã áp dụng một số biện pháp mang tính hành chính trong điều hành CSTT và đã phát huy tác dụng nhất định nhưng hệ quả để lại cũng không hề nhỏ. Sau một giai đoạn thiết lập một cơ chế lãi suất khá chặt chẽ, NHNN đã có những bước đi thận trọng để tiến tới tự do hóa lãi suất như cho phép các NHTM và khách hàng thỏa thuận lãi suất đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên, và sau đó là 6 tháng trở lên. Thị trường tiền tệ ổn định sau những lần điều chỉnh trên và dự báo tiếp tục ổn định trong thời gian tới là cơ sở để NHNN tiến tới hạn chế dần các công cụ trực tiếp và chuyển sang áp dụng các công cụ gián tiếp để định hướng lãi suất thị trường. Điều này hoàn toàn phù hợp với lý thuyết cũng như bài học kinh nghiệm từ các quốc gia trên thế giới. Theo đó, quan điểm về tự do hóa lãi suất của Việt Nam cần tập trung vào hai vấn đề sau:

Thứ nhất, về thời điểm và tốc độ tiến hành tự do hóa lãi suất. Về cơ bản, việc tự do hóa lãi suất phải được tiến hành đồng thời với công cuộc tái cơ cấu hệ thống tài chính và tái cấu trúc nền kinh tế. Đối với một quốc gia gặp phải tình trạng mất cân đối vĩ mô và cân đối tài chính, các khung pháp lý và giám sát thị trường tài chính chưa hiệu quả, hệ thống các NHTM còn nhiều yếu kém đòi hỏi phải tái cơ cấu như tại Việt Nam, việc thực hiện tự do hóa lãi suất quá nhanh chóng sẽ gây ra những ảnh hưởng tiêu cực. Hơn nữa, hệ thống DNNN hoạt động thiếu hiệu quả, hệ thống NHTM thiếu sự cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, dịch vụ (chủ yếu cạnh tranh về giá thông qua lãi suất), sự thiếu minh bạch thông tin của các khách hàng vay khiến cho việc xác định lãi suất phù hợp với cung cầu vốn của thị trường trở nên khó khăn hơn. Tiến trình tự do hóa lãi suất diễn ra nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào khả năng quản trị rủi ro lãi suất của các ngân hàng và khách hàng vay vốn.


Thực tế Việt Nam cho thấy việc quá vội vàng áp dụng tự do hóa lãi suất (như trong giai đoạn 2009 - 2010) trong khi các điều kiện chưa hội tụ đủ sẽ không mang lại kết quả tích cực như kỳ vọng. Tự do hóa lãi suất sẽ dẫn đến mức độ cạnh tranh giữa các NHTM tăng lên nhiều và kinh nghiệm thế giới cho thấy cạnh tranh tăng lên thường mang lại hiệu ứng tiêu cực hơn là tích cực trong thời gian đầu khi các NHTM được phép cho vay các nhu cầu với mức rủi ro cao để hỗ trợ nhu cầu vay mượn tăng lên khi được giải tỏa về trần lãi suất (trước đây với mức trần lãi suất, các khách hàng có mức độ rủi ro cao không thể tiếp cận được nguồn vốn tín dụng). Do vậy, quá trình tự do hóa lãi suất cần phải được dựa vào những kết quả đạt được của quá trình cơ cấu lại hệ thống các NHTM cũng như khả năng điều tiết của NHNN đối với những hành vi của các NHTM.

Thứ hai, trình tự thực hiện đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định sự thành công của tự do hóa lãi suất. Trình tự thực hiện không chỉ là việc dỡ bỏ các công cụ gián tiếp đối với lãi suất huy động và cho vay mà còn liên quan đến các giao dịch tiền tệ bán buôn và bán lẻ. Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cho thấy, lãi suất bán buôn sẽ được tự do trước tiên, sau đó là đến lãi suất cho vay, và cuối cùng là lãi suất huy động do trình tự này bảo đảm mức độ lợi nhuận cho hệ thống NHTM cũng như cho phép các chủ thể trong nền kinh tế dần thích nghi với cơ chế lãi suất mới.

Do các NHTM có thể quản trị rủi ro lãi suất tốt hơn hệ thống doanh nghiệp và cá nhân, và lãi suất trên TTLNH không tác động trực tiếp đến lãi suất trên thị trường nên cần tiến hành tự do hóa lãi suất trên thị trường này trước tiên. Giải pháp này cũng sẽ là một bước thử nghiệm mang tính thận trọng của NHNN về khả năng sẵn sàng hoạt động trong cơ chế lãi suất tự do của các NHTM.

Việc nới lỏng dần các công cụ kiểm soát trực tiếp đối với lãi suất cho vay trước khi áp dụng đối với lãi suất huy động sẽ giúp hạn chế tình trạng cạnh tranh về giá giữa các NHTM, vốn dĩ đã xảy ra trong giai đoạn trước đây khi mặt bằng lãi suất trong nền kinh tế luôn chịu áp lực tăng. Khi trần lãi suất huy động được can thiệp chặt chẽ và các NHTM sẽ chỉ có thể điều chỉnh lãi suất cho vay để thu hút khách hàng, bản thân họ sẽ phải (i) thực hiện các biện pháp cải thiện hoạt động của mình để giảm thiểu chi phí, từ đó giảm lãi suất cho vay để cạnh tranh; (ii) định giá các khoản vay cho cơ sở rủi ro và đưa ra mức phần bù rủi ro phù hợp; (iii) phát triển những yếu tố cạnh tranh khác về chất lượng dịch vụ hơn là tập trung về giá (lãi suất cho vay).

Để hạn chế tình trạng vốn huy động mất ổn định khi thực hiện bỏ trần lãi suất huy động, NHNN có thể ưu tiên thực hiện trước việc tự do hóa lãi suất đối với các khoản tiền gửi của các khách hàng lớn, của hệ thống DNNN trước khi áp dụng đối với


các khoản tiền gửi của cá nhân. Tại Việt Nam, khi thị trường tiền tệ chưa phát triển và mức độ minh bạch thông tin chưa cao, các doanh nghiệp với tiền nhàn rỗi lớn gần như chỉ có giải pháp gửi tiền vào hệ thống NHTM nên việc áp dụng biện pháp này hoàn toàn hợp lý. Thông qua kết quả áp dụng với đối tượng này, NHNN có thể xây dựng lộ trình phù hợp hơn đối với tự do hóa lãi suất huy động đối với các khách hàng cá nhân.

Thực tiễn tự do hóa lãi suất tại một số quốc gia cho thấy việc tự do hóa lãi suất thường dẫn tới sự gia tăng quá mức của tín dụng, gây ảnh hưởng tới ổn định kinh tế vĩ mô. Đây cũng là hiện tượng đã xảy ra tại Việt Nam trong những năm 2006 và 2007 do Việt Nam lúc đó đang trong đà tăng trưởng kinh tế mạnh. Với bối cảnh kinh tế Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn điều chỉnh như hiện nay, tăng trưởng kinh tế ở mức vừa phải nhưng ổn định là điều kiện tốt để bảo đảm cho việc tự do hóa lãi suất không dẫn tới những hệ quả như giai đoạn trước. Tuy vậy, NHNN vẫn cần thực hiện vai trò giám sát diễn biến huy động lẫn tín dụng trên thị trường và có các biện pháp can thiệp kịp thời để bảo đảm mục tiêu ổn định vĩ mô luôn được ưu tiên hàng đầu. Ngoài ra, việc tự do hóa lãi suất cần phải được thực hiện rất thận trọng với việc NHNN cần phải hoàn thiện các công cụ gián tiếp, đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở, và xây dựng môi trường truyền tải tốt để bảo đảm khả năng can thiệp thông qua cơ chế gián tiếp.

3.2.1.4. Củng cố và chấn chỉnh kỷ cương thị trường tiền tệ - tín dụng trên cơ sở thực hiện hiệu quả công tác thanh tra - giám sát ngân hàng

NHNN cần xây dựng hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng hiện đại và hiệu quả trên cơ sở đáp ứng đầy đủ những thực tiễn phát triển nhanh chóng của hệ thống NHTM, dần áp dụng và tiến tới thực hiện đầy đủ các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế về thanh tra, giám sát hoạt động ngân hàng. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh hệ thống NHTM đang phát triển nhanh chóng, thị trường tài chính mở rộng về quy mô cũng như nâng cao về chất lượng, hội nhập sâu hơn vào kinh tế quốc tế. Trong bối cảnh như vậy, NHTM là nhóm đối tượng chắc chắn phải chịu những cú sốc từ kinh tế và thị trường tài chính khu vực.

Xuất phát từ tính cấp thiết đó, NHNN cần tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các NHTM đảm bảo hoạt động an toàn, đúng quy định của pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm các quy định của cơ quan quản lý nhằm củng cố và chấn chỉnh lại kỷ cương thị trường.

a/ Đối với các yếu tố bên trong

Hoàn thiện các điều kiện tiên quyết cho hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng hiệu quả.


Xây dựng Luật thanh tra, giám sát ngân hàng để tạo cơ sở vững chắc và rõ ràng cho hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng.

Đổi mới mô hình tổ chức bộ máy thanh tra theo chiều dọc từ NHTW tới các chi nhánh, tạo mức độ độc lập cho hoạt động thanh tra thông qua việc thành lập Cơ quan thanh tra giám sát để thực hiện đầy đủ các chức năng cấp phép, ban hành quy chế an toàn hoạt động ngân hàng; giám sát từ xa (off-site); thanh tra tại chỗ (on-site); và xử lý vi phạm.

Phân định rõ cơ chế và trách nhiệm phối hợp giữa Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng và Vụ ổn định tài chính – tiền tệ.

Bảo đảm Cơ quan thanh tra giám sát có đầy đủ quyền trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bao gồm: yêu cầu báo cáo thông tin, thực hiện các nghiệp vụ thanh tra, kiến nghị xử lý, và thực hiện xử lý một cách độc lập và khách quan.

Đổi mới và nâng cao hiệu quả phương pháp thanh tra, giám sát ngân hàng

Phương thức thanh tra, giám sát phải có giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ; mặc dù đã được triển khai nhưng cần phải được cải tiến và hoàn thiện hơn nữa cho phù hợp với sự phát triển của hệ thống ngân hàng và thị trường tài chính trong quá trình hội nhập.

Nhanh chóng đổi mới cho phù hợp với thông lệ quốc tế, áp dụng chuẩn mực Thanh tra ngân hàng thế giới Basel II vào Việt Nam. Bảo đảm an toàn và tính toàn vẹn của hệ thống ngân hàng trên cơ sở tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh thông qua xây dựng cơ chế quản lý đi đôi với cơ chế giám sát ngân hàng hữu hiệu và phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế.

Hoàn thiện hệ thống quy chế quản lý và biện pháp thận trọng trong lĩnh vực ngân hàng theo hướng phù hợp với nguyên tắc thị trường và cam kết mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trên cơ sở từng bước tạo sân chơi bình đẳng, loại bỏ các rào cản gia nhập thị trường và tiếp cận dịch vụ ngân hàng trước đây.

Xây dựng thể chế giám sát ngân hàng đi đôi với thực hiện cơ chế giám sát dựa trên cơ sở rủi ro và xây dựng Luật giám sát an toàn hoạt động ngân hàng trên nguyên tắc cài thiện tính độc lập gắn liền nâng cao với tính trách nhiệm và minh bạch của Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng.

Không ngừng hoàn thiện cơ sở hạ tầng hỗ trợ giám sát hoạt động ngân hàng. Đổi mới hệ thống kế toàn ngân hàng phù hợp với các chuẩn mực kế toán quốc tế để tạo điều kiện cho các NHTM ứng dụng công nghệ quản trị ngân hàng hiện đại và tạo rào chắn chống lại sự lạm dụng và gian lận, trong đó đặc biệt lưu ý đến chuẩn mức kế toán Mỹ và kế toán quốc tế trong xu hướng hợp nhất giữa hai chuẩn mực này.


Hiện đại hoá hạ tầng công nghệ thông tin, báo cáo phục vụ mục đích giám sát an toàn hoạt động ngân hàng. Tăng cường quy chế công bố thông tin, nâng cao chất lượng và mức độ tin cậy của thông tin thông qua cải thiện chất lượng và hiệu quả của kiểm toán độc lập.

Xây dựng và vận hành có hiệu quả cơ chế thực thi đấu tranh chống tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng, trong đó quan tâm hơn đến việc hoàn thiện tổ chức bộ máy và cơ chế vận hành Trung tâm Thông tin chống rửa tiền.

Cơ quan thanh tra, giám sát ngân hàng cần tăng cường trao đổi thông tin và phối hợp với các quan giám sát tài chính trong nước và ngoài nước trong việc triển khai giám sát các ngân hàng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam.

Đổi mới thanh tra, giám sát ngân hàng phải trên cơ sở chương trình, kế hoạch, có chiến lược phát triển rõ ràng.

Đổi mới thanh tra, giám sát ngân hàng cần đồng thời đổi mới nâng cao năng lực tự quản trị của các NHTM. Cơ chế tự chủ trong kinh doanh được tăng cường cũng đồng nghĩa với việc các NHTM phải tự quản trị, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh và đầu tư của mình. Về mặt lý thuyết là phải có sự cân bằng và tương xứng về quy mô, tốc độ phát triển kinh doanh với khả năng quản trị của các NHTM. Đồng thời khi khả năng tự quản trị của NHTM được tăng cường thì cơ chế thanh tra, giám sát của thanh tra, giám sát ngân hàng cũng sẽ đổi mới; có như vậy, việc đổi mới về tổ chức và hoạt động của thanh tra, giám sát ngân hàng mới phù hợp, mới thúc đẩy các NHTM phát triển tốt hơn.

Đầu tư và phát triển nguồn nhân lực cho hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng phải được đặc biệt coi trọng và xem như yếu tố quyết định để tạo ra chuyển biến có tính đột phá trong ngắn hạn và đảm bảo sự phát triển bền vững trong dài hạn của hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng. Để tiếp tục nâng cao chất lượng của hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng, thì cần phải chú trọng nội dung nâng cao trình độ nghiệp vụ của thanh tra viên, tập trung vào kỹ năng quản trị rủi ro, công nghệ ngân hàng và dịch vụ tài chính mới, quản trị ngân hàng hiện đại, các kỹ năng bổ trợ như phân tích tài chính, hoạt động NHTM. Xử lý nghiêm những vi phạm đạo đức nghề nghiệp cho dù là nhỏ đồng thời có chế độ đãi ngộ phù hợp đối với những thanh tra viên có năng lực, trình độ chuyên môn giỏi.

Cần đổi mới mạnh mẽ khâu tổ chức thực hiện. Trong quá trình đổi mới, thanh tra, giám sát ngân hàng phải quan tâm, tránh tình trạng có nhiều giải pháp, biện pháp, kế hoạch đổi mới nhưng không có kết quả cụ thể do khâu tổ chức thực hiện yếu. Các biện pháp, các điều kiện để tổ chức thực hiện phải được cụ thể hoá trong các kế


hoạch đổi mới, trong từng nội dung đổi mới, tránh tình trạng chung chung. Các biện pháp thực hiện phải giải quyết được cơ bản và triệt để những vấn đề đặt ra trong các nội dung cần đổi mới; phải xác định rõ trách nhiệm cụ thể của từng đơn vị, từng cá nhân, kể cả trách nhiệm giám sát, theo dõi quá trình tổ chức thực hiện.

Sử dụng hiệu quả việc công bố thông tin nhằm làm mạnh kỷ luật thị trường như là một sự bổ sung cho các nỗ lực giám sát. Yêu cầu các NHTM cần phải công khai thông tin một cách thích đáng, đầy đủ và minh bạch theo nguyên tắc thị trường bao gồm các tài liệu, thông tin, báo cáo về tình hình hoạt động, kinh doanh theo định kỳ hay đột xuất. Qua đó có cơ sở để thực hiện các biện pháp chấn chỉnh vi phạm các quy định về an toàn trong hoạt động ngân hàng và nguy cơ mất khả năng chi trả một cách kịp thời và hoàn thiện "Hệ thống cảnh báo sớm" nhằm dự báo sớm rủi ro hệ thống trong bối cảnh kinh tế thế giới vẫn còn có nhiều biến động phức tạp.

b/ Đối với các yếu tố bên ngoài

Một hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng hiệu quả cần dựa trên một số nhân tố bên ngoài hay còn gọi là một số điều kiện tiền đề. Mặc dù những điều kiện tiền đề này nằm ngoài khả năng tác động trực tiếp của thanh tra, giám sát ngân hàng nhưng lại có tác động trực tiếp lên tính hiệu quả trong thực tế. Khi có những thiếu sót tồn tại, thanh tra, giám sát ngân hàng cần kiến nghị với Chính phủ và NHNN về những thiếu sót đó và những tác động trở lại mang tính tiêu cực thực sự hay tiềm tàng của chúng đối với các hoạt động thanh tra ngân hàng. Đồng thời, đúng như với vai trò của mình, thanh tra, giám sát ngân hàng cần phải làm giảm nhẹ những tác động của những hậu quả đó nhằm đảm bảo tính hiệu quả của hoạt động thanh tra, giám sát các ngân hàng. Các nhân tố bên ngoài tác động đến hoạt động thanh tra bao gồm:

Chính sách kinh tế vĩ mô hợp lý: Chính sách kinh tế vĩ mô hợp lý là nền móng của một hệ thống tài chính ổn định. Mặc dù mức độ hợp lý của chính sách kinh tế vĩ mô không nằm trong khả năng tác động của thanh tra ngân hàng nhưng thanh tra ngân hàng cần phải hành động cần thiết nếu như nhận biết những chính sách hiện tại đang làm giảm đi sự hiệu quả và lành mạnh của hệ thống ngân hàng.

Kết cấu hạ tầng công cộng phát triển tốt: Một hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển tốt cần bao gồm những nhân tố sau:

Một hệ thống các luật doanh nghiệp, bao gồm luật hợp nhất, luật phá sản, luật bảo vệ người tiêu dùng và luật tài sản cá nhân… được thi hành nghiêm chỉnh và là cơ sở để giải quyết ổn thoả những tranh chấp;

Những chuẩn mực kế toán toàn diện và rõ ràng được quốc tế chấp nhận;

Một hệ thống kiểm toán độc lập cho các công ty tầm cỡ, nhằm đảm bảo

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 01/12/2022