Hàn Mặc tử đã nhận ra điểm tựa của mình trong cơn hoảng loạn chính là niềm tin tuyệt đối vào Đấng cứu thế, hồi sinh ra sự sống - Đức mẹ Maria.
“Maria! Linh hồn tôi ớn lạnh
Run như run thần tử thấy long nhan Run như run hơi thở chạm tơ vàng
Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến”
(Ave Maria)
Chính sự hướng khởi và niềm tin nơi Đức Mẹ đã cho Hàn Mặc Tử những câu thơ cảm tạ sâu sắc đến như thế. Và chính Đức Mẹ với lòng nhân từ đã cứu Hàn Mặc Tử trong cơn lâm nguy. Theo Nguyến Bá Tín, đây là lời thơ có thật, trong khi một lần chữa bệnh, Hàn Mặc Tử thấy đỡ, lời thơ cất lên như tự nhiên, như một lời kinh cầu nguyện, chân thành, cất lên từ một tâm hồn khổ hạnh. Hàn Mặc Tử bảo: “Đó là Đức Mẹ đã khiến anh được như vậy”.
“Lạy bà là đấng tinh truyền thánh vẹn Giàu nhân đức giàu muôn hộc từ bi Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy Cơn lâm luỵ vừa trải qua dưới thế”
(Ave Maria)
Hàn Mặc Tử có những câu thơ rất hay ca ngợi Đức Mẹ. Nó được cất lên bởi đức tin, lòng biết ơn tôn kính.
“Hồn con khao khát tìm chúa, chúa ơi”
Có thể bạn quan tâm!
- Từ Cảm Hứng Thơ Đến Cảm Hứng Tôn Giáo Trong Thơ Là Sự Khao Khát Vươn Đến Cái Tột Cùng Của Hàn Mặc Tử
- Sự Khao Khát Đến Cái Tột Cùng Của Hàn Mặc Tử
- Thơ Hàn Mặc Tử Là Một Thế Giới Tôn Giáo Sống Động Nhiều Màu Sắc
- Triết Lý Đạo Gia Và Khát Vọng Tiêu Dao Trong Vũ Trụ
- Cảm hứng và chất liệu tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử và Huy Cận - 9
- Cảm hứng và chất liệu tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử và Huy Cận - 10
Xem toàn bộ 81 trang tài liệu này.
Thì ta cũng gặp trong thơ Hàn Mặc Tử mang đậm cái cảm hứng ấy: “Như song lộc triều nguyên ơn phước cả” (Ave Maria). Đã có lúc lời thơ là sự tôn sùng, thành kính đức mẹ ở tâm linh cũng như sự thể hiện bằng thơ:
“Và tổng lãnh thiên thần quỳ lạy mẹ Tung hô câu đường hạ ngợp châu sa Hương xông lên trời ca ngợi sung hoà Trí miêu duệ của muôn vì rất thánh”
(Ave Maria)
Trong Kinh thánh có nói rằng: “Lạy Thiên Chúa là công lý của tôi, khi tôi kêu cầu chúa, hãy đáp lời tôi. Trong giờ lo âu, Chúa là đấng an ủi thêm sức mạnh cho tôi. Xin thương xót tôi và nhận lời tôi cầu khẩn. Còn Hàn Mặc Tử thì
dâng lên chúa lời cầu khẩn, lời tạ tội cũng là lời cầu nguyện nhưng nó lại nhuốm trong cái đời thực vì là lòng hối hận lúc “mê sảng” của hồn thi sĩ:
“Tôi van lơn thầm nguyện chúa Jêsu Ban ơn xuống cho mùa xuân hôn phối Xin tha thứ những câu thơ tội lỗi
Của bàn tay thi sĩ kẻ lên trăng
Trong bao đêm xao xuyến vũng sông Hằng”
(Câu 27 – 31 Xuân như ý)
Trong Thánh vịnh số mười sáu của Kinh Thánh có câu về niềm vui sống với chúa: “Lạy Thiên chúa xin người giữ tôi vì tôi tìm nương náu nơi Chúa. Tôi đã thưa cùng Chúa, Chúa là Chúa tôi”. Hàn Mặc Tử cũng dâng hồn mình lên với Chúa, cũng tìm sự cứu đỡ trong nơi đất Chúa:
“Như song lộc triều nguyên ơn phước cả Dâng cao dâng thần nhạc sáng hơn trăng Thơm tho bay cho đến cõi thiên đàng
Huyền diệu biến thành muôn Kinh trọng thể”
(Ave Maria)
Hàn Mặc Tử đã có niềm tin tuyệt đối vào thơ và Đức Mẹ Maria. Niềm tin ấy vừa là điều kiện vừa là bản chất sống và sáng tạo trong Hàn Mặc Tử. Nếu không có đức tin ấy, Hàn Mặc Tử không thể chống lại sự đau đớn về thể xác, suy sụp về tinh thần mỗi khi lâm trọng bệnh. Chả thế mà càng giai đoạn cuối đời, Hàn Mặc tử sáng tác càng mãnh liệt. Tiếng thơ giai đoạn cuối đời là tiếng thơ trong trẻo, bí ẩn và khao khát hướng về cõi sống nhất:
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó Có chở trăng về kịp tối nay”
(Đây thôn Vĩ dạ)
“Tối nay” là một hiện tại ngắn ngủi. Trăng nếu về kịp sẽ giải thoát nỗi đau thương trong Hàn Mặc Tử. “Có chở trăng về kịp tối nay” là một câu hỏi lớn, cũng là khao khát mãnh liệt hướng về cõi sống, cõi sáng của Hàn Mặc Tử. “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó” vừa là câu hỏi nhân tình nhưng cũng vừa là câu hỏi nhân sinh gọi về sự sống. “Tối nay” thôi, có thể về “kịp” không? Chữ “kịp” là tiếng nói của sự khẩn cầu, khẩn cấp. Đây là tiếng gọi sự sống tối thiểu trong hiện tại ngắn ngủi, tối
nay chứ không phải một tối bất kỳ nào khác. Ngay trong lúc sự sống còn tối thiểu thì Hàn Mặc Tử vẫn còn đức tin và hy vọng tối đa vào cõi sống, vầng sáng thanh khiết. Như vậy, thêm một lần nữa có thể khẳng định đức tin vừa là điều kiện vừa là bản chất của sự sống trong Hàn Mặc Tử. Đây là yếu tố không thể thiếu trong cuộc sống và trong sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ.
Chương 3
CẢM HỨNG VÀ CHẤT LIỆU TÔN GIÁO TRONG THƠ HUY CẬN
3.1. Huy Cận nhà thơ của tình đời và niềm khát vọng sự sống vĩnh hằng
3.1.1. Vài nét về cuộc đời Huy Cận
Huy Cận, tên đầy đủ là Cù Huy Cận, sinh năm 1919 tại làng Ân Phú, Xã Đức Ân, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh.
Thuở nhỏ Huy Cận học ở quê, đang học lớp tư được vài tháng, Huy Cận được ông cậu đưa vào Huế học hết tú tài toàn phần năm 1939. Sau đó Huy Cận ra Hà Nội học Trường Cao đẳng Canh nông. Từ năm 1942, Huy Cận bắt đầu tham gia hoạt động Việt Minh. Năm 1945, khi Cách mạng tháng Tám thành công, Huy Cận được cử giữ chức Bộ trưởng Bộ Canh nông, sau đó lần lượt đảm nhận các chức vụ Thứ trưởng Bộ Canh, Thứ trưởng Bộ Kinh tế, Thứ trưởng Tổng thư ký Hội đồng Chính phủ, Thứ trưởng Bộ Văn hóa (1955 -1984), Bộ tr- ưởng đặc trách công tác Văn hóa nghệ thuật kiêm Chủ tịch ủy ban Trung ương Liên hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam. Ngày 19 tháng 2 năm 2005, Huy Cận mất tại Hà Nội. Huy Cận là nhà hoạt động văn hóa say mê bền bỉ. Ông am hiểu sâu sắc nền văn hóa dân tộc và nhiều nền văn hóa trên thế giới. Ông không phải là người theo Thiên Chúa giáo hay Phật giáo nhưng ông nghiên cứu những triết lý của hai tôn giáo này và trân trọng những di sản văn hóa tôn giáo, kết hợp nhuần nhị giữa Đạo và đời.
3.1.2. Hành trình sáng tạo thơ của Huy Cận
Bài thơ đầu tiên, Chiều xa của Huy Cận được đăng trên báo Ngày nay, số Tết năm 1938. Từ đó thơ Huy Cận liên tục được đăng tải trên các báo và đến cuối năm 1940 tập thơ Lửa thiêng ra đời. Với Lửa thiêng, vị trí của Huy Cận đ- ược khẳng định một cách chắc chắn trên thi đàn, ông trở thành một trong những nhà thơ hàng đầu của phong trào Thơ mới. Bên cạnh mạch sầu vạn kỷ chảy man mác trong suốt tập thơ, người đọc vẫn nhận ra ngọn lửa thiêng của tâm linh huyền diệu soi sáng, hướng con người vươn tới chốn thanh cao. Sau Lửa thiêng, Huy Cận viết tiếp Vũ trụ ca. Những thi phẩm trong tập thơ này mang một mục đích tinh thần rõ nét: Vui chung vũ trụ/ Nguôi sầu nhân gian. (Triều nhạc). Để vượt thoát cuộc đời buồn bã và tù túng Huy Cận đã đến với vũ trụ để tiêu dao.
Có lẽ tư tưởng của Trang Tử có ảnh hưởng không nhỏ đến Huy Cận trong hành trình sáng tác Vũ trụ ca.
Sau Cách mạng Tháng Tám, trải qua chín năm kháng chiến chống Pháp, khi hòa bình được lập lại trên miền Bắc, hồn thơ Huy Cận lại tái sinh mãnh liệt. Cảm quan vũ trụ và tình người tình đời lại được khơi nguồn trong hiện thực cuộc đời mới. Lần lượt nhiều tập thơ của Huy Cận ra đời đều đặn: Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963), Những năm 60 (1968), Chiến trờng gần đến chiến trường xa (1973), Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (1975), Ngôi nhà giữa nắng (1978), Hạt lại gieo (1984). Chim làm ra gió (1991), Ta về với biển (1997). Suốt mấy chục năm vừa lãnh đạo văn hóa vừa làm thơ, Huy Cận đến mọi miền đất nước và đến nhiều dân tộc khác nhau trên khắp hành tinh. Trong những chuyến đi ấy, cảm hứng được gợi lên từ những công trình văn hóa, những tác phẩm nghệ thuật tôn giáo từ kiến trúc đến điêu khắc, hội họa và cả văn hóa phi vật thể của các tôn giáo. Chính cảm hứng và chất liệu tôn giáo đã góp phần tạo nên nét đặc sắc trong nhiều tác phẩm của Huy Cận: Các vị La Hán chùa Tây Phương, Trò chuyện với Kim Tự tháp, Chùa Trăm gian, Cảnh địa ngục... Dù ở mức độ khác nhau nhưng có thể khẳng định rằng, trong thế giới thơ Huy Cận luôn có ánh sáng của thế giới tâm linh soi rọi. Nguồn sáng ấy giúp chúng ta nhìn thấu được sự hóa sinh vô tận của sự sống con người và tin tưởng vào chốn thanh cao của tinh thần bất diệt.
3.2. Cảm hứng và chất liệu tôn giáo trong thơ Huy Cận trước Cách mạng Tháng Tám
3.2.1. Niềm tâm sự của kẻ mất thiên đường
Cũng như những thi nhân trong phong trào Thơ mới, Huy Cận có nỗi buồn tủi và nỗi cô đơn của người dân nô lệ nhưng mỗi nhà thơ có cách cắt nghĩa theo những con đường riêng của mình.
Lửa thiêng của Huy Cận dằng dặc một nỗi buồn nhân thế, triền miên những nỗi đau đời. Ông “đã gọi dậy cái hồn buồn của Đông Á, người đã khơi lại cái mạnh sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngấm trong cõi đất này”.
Với Lửa thiêng, Huy Cận đã dâng tặng cho đời những vần thơ đẹp, nh- ưng buồn ảo não bậc nhất. Buồn bã cô đơn là tâm trạng chung của các nhà Thơ mới, nhưng không có nhà thơ nào “Buồn nhiều, buồn sâu, buồn thấm” như Huy Cận. Đi dọc Lửa thiêng, ta thấy “buồn” và “sầu” giăng mắc khắp các câu thơ.
Thi nhân buồn trong mọi lúc: “chiều buồn”, “đêm sầu”, “Buồn đêm mưa”, “buồn xế trưa” ... Nỗi buồn từ “vạn thuở”, “vạn kỉ” lan toả khắp không gian, thời gian.
Con người trong Lửa thiêng “bơ vơ”, “goá bụa”, không tìm đợc điểm tựa giữa cõi trần. Đó là sự cô đơn gần như tuyệt đối trên cả trục không – thời gian:
Hồn đơn chiếc như đảo rời dặm biển Suốt một đời như núi đứng riêng tây.
(Mai sau) Một chiếc linh hồn nhỏ Mang mang thiên cổ sầu.
(Ê chề)
Quan niệm về con người cá nhân trong thế giới nghệ thuật thơ Huy Cận trước Cách mạng Tháng Tám là con người bị mất thiên đường, bị cắt ra khỏi vũ trụ, bị đày xuống “Xứ hờ” và từ đó bơ vơ lạc lõng giữa chốn trần gian. Con người trong thế giới nghệ thuật Lửa thiêng được hình dung như một sinh linh gồm 3 thực thể vừa thống nhất, vừa phân hoá: Linh hồn, tấm lòng và thân thể. Thân thể là thực thể hữu hạn trong không gian, thời gian, chỉ tồn tại nơi trần thế, là “Bình thịt xương để chứa đựng linh hồn”. Tấm lòng là thực thể vô hình luôn gắn liền với thân thể, tồn tại cùng thân thể, là tâm tư tình cảm của con ng- ười. Trong khi thân thể và tấm lòng là hữu hạn, chỉ tồn tại ở cõi trần thì linh hồn lại trường tồn, bất tử, linh hồn có thể tồn tại trong cả ba thế giới: Thiên đường, địa ngục, trần gian.
Trong Lửa thiêng, Huy Cận nói đến thân nhưng đó không phải là ý thức về cá nhân riêng tư nhất của con người, cũng không phải là ý thức của thân phận con người trong cuộc đời cũ. Thân theo quan niệm của nhà thơ là thân thể, thể xác, phần vật chất hiện hữu gắn liền với cuộc đời phàm tục, là giới hạn ngăn cách giữa người và người. Điều mà nhà thơ quan tâm hơn đó là lòng, tấm lòng, là tình người, tình đời sâu nặng. Từ đó Huy Cận chuyển từ cảm hứng thương thân trong văn học trung đại sang cảm hứng thương lòng.
Trong lúc cảm hứng thương thân xuất phát từ ý thức về thân phận thì cảm hứng thương lòng xuất phát từ ý thức về sự cô đơn của con người giữa cõi
đời. Con người trong thế giới thơ Huy Cận trước Cách mạng Tháng Tám là con người cá nhân cô đơn không tìm được niềm giao cảm:
Lòng chàng xa chốn nọ với nơi này Đây hay đó chỉ dựng chòi cô độc.
(Mai sau)
Tình trạng cô đơn của con người trong xã hội cũ được Huy Cận cắt nghĩa theo hai con đường, một con đường xuất phát từ quan hệ xã hội và một con đường mang màu sắc tôn giáo.
Trước hết, Huy Cận cho rằng tình trạng cô đơn của con người là do sự tuyệt giao của những tấm lòng. Càng khát khao giao tiếp tình cảm, nhà thơ càng đau đớn tuyệt vọng vì sự hờ hững, thờ ơ của bao tấm lòng khác:
Mong trốn tránh bơ vơ Tôi đem tình bán rẻ Cho vạn khách thờ ơ Và lòng tôi đã ế.
(Ê chề)
Vì vậy, nhà thơ thường hay nói đến những tấm lòng đau thương, buồn tủi, xót xa: “Lòng hoảng hốt”, “lòng lạnh”, “lòng run”, “lòng sầu”, “lòng buồn”, “lòng quạnh hiu”, „lòng đau xé”... Nỗi đau lòng của nhà thơ Huy Cận là một mặt biểu hiện của lòng yêu đời, niềm khát khao tình yêu hạnh phúc nhưng không được đền đáp. Trong thơ Huy Cận có một thế giới tấm lòng rất phong phú nhưng có điều tấm lòng không đến được với nhau trong đời vì mỗi người là một ốc đảo cô đơn, con người bị những hàng rào ngăn cách, ngay cả khi khoảng không gian được rút ngắn thì khoảng cách của những tấm lòng vẫn cứ vời xa: “Gần gũi song le vẫn biệt rào” (Song Song).
Hình tượng con người cô đơn là quan niệm phổ biến của các nhà thơ lãng mạn, nhưng ở mỗi nhà thơ có cách chuyển hoá quan niệm theo cách riêng của mình. Xuân Diệu cắt nghĩa sự cô đơn bằng những phẩm chất quá “riêng tây” của mình. Con người ấy có lúc quá thơ ngây, khờ khạo, ngu ngơ, có lúc lại quá kiêu hãnh với cái tôi của mình.
Ta là một, là riêng, là thứ nhất Không có ai bè bạn nổi cùng ta
(Hi mã lạp sơn)
Vũ Hoàng Chương cắt nghĩa sự cô đơn bằng cảnh huống của những kẻ lạc loài, của những người “Đầu thai nhầm thế kỷ”.
Nguyễn Bình lý giải sự cô đơn của mình bằng kiểu người tha hương, lạc bước giữa chốn thị thành. Con người cá nhân cô đơn, trong thơ Huy Cận lại hội tụ ở thế giới tấm lòng, không tìm thấy niềm giao cảm của cuộc đời.
Trong thơ Huy Cận trước Cách mạng Tháng Tám không chỉ có tấm lòng tuyệt giao với cuộc đời mà còn có cả linh hồn cũng lạc lõng bơ vơ giữa chốn trần gian. Đấy chính là tình trạng bi đát của con người, kẻ mất Thiên đường, cô đơn nơi trần thế. Nhà thơ Huy Cận đã dùng tri thức và triết lý của Thiên Chúa giáo để cắt nghĩa tình trạng cô đơn của con người. Đó chính là truyền thuyết về Adam và Eva ăn trái cấm (Quả Tri thức) vì vậy họ bị đuổi ra khỏi Vườn Địa đàng, bị đày ải ở chốn trần gian và chịu cảnh:
Nhưng cô độc đã thầm ghi trên trán, Lòng lạc loài ngay từ thuở sơ sinh
Quan niệm Thiên Chúa giáo về phần hồn và phần xác cũng được Huy Cận sử dụng để nói về sự chia biệt, cô đơn:
Tôi đâu biết thịt xương là sông núi Chia biệt người ra từng xứ cô đơn.
(Trình bày)
Quan niệm đó cũng được Huy Cận sử dụng trong bài Thân thể để giải thích rõ hơn về phần hồn và phần xác của con người:
A! Thân thể! Một cái bình tội lỗi Đất sơ sinh đã hóa lại bùn lầy.
(Thân thể)
Theo Thiên chúa giáo, thân thể vốn là cát bụi và con người được sinh ra khi Chúa thổi phần hồn vào đó. Bởi vậy xác chỉ phần vật chất chứa đựng linh hồn và khi con người đau khổ, muốn giải thoát bằng cách thoát khỏi thể xác để trở về chốn yên