Căn Cứ Việc Sử Dụng Phương Tiện Vận Chuyển Khách Du Lịch Tới Điểm Đến Du Lịch

(trung tâm thu hút MICE lớn nhất Đông Nam Á hiện nay). Cảnh quan thiên nhiên ưu đãi, nhiều di sản văn hóa, thiên nhiên thuộc hàng kỳ quan thế giới, bãi biển đẹp, hệ thống khách sạn, resort phát triển… Tuy nhiên theo UNWTO để MICE phát triển Việt Nam nên thành lập MICE Bureau (tổ chức xúc tiến phát triển MICE), xây dựng chiến lược marketing, cải thiện ngay hạ tầng phục vụ khách MICE: visa, sân bay, hệ thống khách sạn, trong đó, việc xác định vị trí xây dựng trung tâm hội chợ triển lãm quốc tế rất quan trọng: nó phải gần sân bay, khách sạn, thuận tiện đi lại, giao dịch. Các giải pháp khác phải hướng vào việc phân tích số liệu thông tin thị trường, thiết lập chiến lược thông tin quảng bá MICE và xây dựng website, phát triển thương mại điện tử, mở các lớp đào tạo nguồn nhân lực trong và ngoài nước.

2.4 Căn cứ vào sự tương tác của du khách đối với nơi đến du lịch

Valene Smith, một nhà nhân chủng học đã phối hợp với trường Đại học Pennsylvania đưa ra một cách phân nhóm khác. Cách phân loại này quan tâm đến sự tác động (cả về kinh tế và xã hội) của khách du lịch đến nước chủ nhà thông qua một số biến số quan trọng như: phạm vi khách du lịch quan tâm (ảnh hưởng đến môi trường), thời gian lưu lại và đối tượng dân cư du khách thường gặp gỡ (và mục đích của cuộc gặp gỡ). Theo cách này, có các loại hình du lịch sau:

- Du lịch thám hiểm: bao gồm các nhà nghiên cứu, học giả, người leo núi và những nhà thám hiểm đi theo các nhóm với số lượng nhỏ. Họ hoàn toàn chấp nhận các điều kiện địa phương. Họ sử dụng đồ dùng cá nhân, thức ăn chuẩn bị trước và hầu như không tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ du lịch. Chính vì vậy, loại hình du lịch này ảnh hưởng không đáng kể đến kinh tế, văn hóa – xã hội và môi trường của điểm đến.

- Du lịch thượng lưu: chuyến đi của tầng lớp thượng lưu đến những nơi độc đáo để giải trí và tìm kiếm sự mới lạ. Bên cạnh việc sử dụng các tiện nghi dành cho khách du lịch thì họ cũng dễ dàng thích nghi với các điều kiện địa phương. Số lượng khách của nhóm này thường tương đối ít, có nhu cầu về những sản phẩm du lịch chất lượng cao và không đàn hồi theo giá cả. Chuyến du lịch của họ có thể dẫn tới những hoạt động đầu tư sau này có lợi cho điểm đến.

- Du lịch khác thường: bao gồm những khách du lịch không giàu có như tầng lớp thượng lưu, họ thích đến những nơi xa xôi, hoang dã, quan tâm đến những vùng văn hóa

sơ khai hoặc tìm kiếm những phần bổ sung thêm (không có) trong một tour dy lịch tiêu chuẩn. Họ thích nghi tốt và chấp nhận những điều kiện về sản phẩm, dịch vụ du lịch do địa phương cung cấp.

- Du lịch đại chúng tiền khởi: Một dòng khách du lịch ổn định đi theo nhóm nhỏ hoặc cá nhân đến các nơi an toàn, phổ biến, khí hậu phù hợp. Họ tìm kiếm các tiện nghi và dịch vụ tiêu chuẩn nhưng cũng dễ dàng chấp nhận các điều kiện chưa đảm bảo tiêu chuẩn của địa phương. Nhu cầu của nhóm này có thể ít đàn hồi theo giá cả và có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của sản phẩm, dịch vụ du lịch ở điểm đến. Đây là sự mở đầu và phát sinh hình thức du lịch đại chúng sau này.

- Du lịch đại chúng: Một số lượng lớn khách du lịch (thường từ Châu Âu hoặc Bắc Mỹ) tạo thành dòng chảy liên tục tràn ngập các khu nghỉ mát nổi tiếng ở châu Âu hoặc Hawaii vào các mùa du lịch. Khách du lịch thường thuộc tầng lớp trung lưu và họ mong muốn các tiện nghi đạt tiêu chuẩn (ví dụ, tiêu chuẩn kiểu châu Âu), nhân viên phục vụ được đào tạo và hướng dẫn viên du lịch biết nhiều ngoại ngữ để có thể thỏa mãn được các nhu cầu của họ tại điểm đến du lịch. Với số lượng nhiều, phạm vi du lịch rộng và nhu cầu có thể ít đàn hồi theo giá cả, loại hình du lịch này có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển du lịch ở cả các quốc gia gửi khách lẫn các quốc gia đón khách, các điểm đến du lịch.

- Du lịch thuê bao: Đây là loại hình du lịch phát triển rộng rãi, thị trường phát triển đến các tầng lớp có thu nhập trung bình và thấp nên có dung lượng lớn. Nó hoàn toàn phụ thuộc vào hoạt động thương mại trong kinh doanh du lịch. Khách du lịch thuộc loại này yêu cầu các tiện nghi tiêu chuẩn (đặc biệt về vận chuyển và lưu trú) và nhu cầu của họ đàn hồi theo giá cả. Với số lượng lớn, dòng khách ồ ạt, chi tiêu của du khách tạo ra nguồn thu nhập lớn đối với các cơ sở kinh doanh và khu vực điểm đến. Ngoài ra, các nước nguồn khách có thể có những hoạt động đầu tư đáng kể vào các lĩnh vực kinh doanh ở đây. Mặt khác, loại hình du lịch này cũng gây ra nhiều tác động tiêu cực (đặc biệt với môi trường và xã hội) đối với điểm đến du lịch.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.

2.5. Căn cứ việc sử dụng phương tiện vận chuyển khách du lịch tới điểm đến du lịch‌

- Du lịch bằng hàng không: Đây là loại hình du lịch mà phần lớn khách du lịch sử dụng. Với việc ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ vào việc sản xuất

Tổng quan du lịch và khách sạn Nghề Nghiệp vụ nhà hàng khách sạn - Trung cấp - Trường CĐ Nghề Kỹ thuật Công nghệ - 4

các phương tiện vận chuyển hàng không, ngày nay con người có thể đi đến khắp mọi nơi trên trái đất. Từ kinh khí cầu, các chuyến bay vượt đại dương, Air Taxi (máy bay nhỏ không cần sân bay) đến cả tàu vũ trụ, trong đó các hãng hàng không đóng một vai trò quan trọng trong việc vận chuyển khách du lịch.

- Du lịch bằng đường bộ: Khi hệ thống đường bộ phát triển không chỉ nối liền các địa phương trong một quốc gia mà còn nối liền với các quốc gia khác, du lịch bằng đường bộ sẽ thúc đẩy hoạt động du lịch phát triển mạnh mẽ. Không chỉ các phương tiện vận chuyển khách du lịch bằng xe ô tô loại lớn, mà khách có thể tự lái xe đưa gia đình và người thân đi du lịch trong nước và nước ngoài. Điển hình là sự phát triển du lịch của các nước ở châu Âu và châu Mỹ, số lượng khách du lịch đi bằng ôtô rất lớn.

- Du lịch bằng đường sắt: Đây là loại hình du lịch phát triển đầu tiên ở Anh do Thomas Cook, người được coi là cha đẻ của ngành đại lý du lịch (lữ hành) trên thế giới tổ chức. Ngày nay, các phương tiện vận tải đường sắt được hiện đại hoá với tiện nghi sang trọng, tốc độ nhanh và an toàn đang cạnh tranh nguồn khách du lịch với các hãng hàng không.

- Du lịch bằng tàu biển: Loại hình du lịch này phát triển mạnh mẽ ở châu Âu và châu Mỹ, ngày nay đang phát triển trong khu vực châu Á- Thái Bình Dương. Khách du lịch đi theo loại hình du lịch này chủ yếu là những người giàu có không chỉ về tiền bạc mà cả về thời gian. Thông thường một chương trình du lịch thường kéo dài hàng tháng và đi qua nhiều nước có cảng biển, họ đỗ lại và lên bờ tham quan. Những chiếc tầu biển này như một khách sạn 5 sao nổi trên mặt biển và trong tầu không chỉ có buồng ngủ cho khách mà còn có cả bể bơi, sân thể thao, phòng chiếu phim, vũ trường…, đáp ứng nhu cầu của khác trong thời gian đi du lịch theo loại hình này.

- Du lịch bằng tàu thuỷ: Loại hình du lịch này chủ yếu phát triển ở những vùng có nhiều sông và với những con sông chảy qua nhiều quốc gia như sông Đanuyt (Châu Âu), sông MêKông (châu Á)... Khách du lịch đi trên du thuyền này đi tham quan các quốc gia có dòng sông đi qua. Loại hình du lịch bằng đường thuỷ này rất phát triển khi kết hợp với loại hình du lịch tham quan văn hóa lịch sử.

Căn cứ vào việc khách du lịch sử dụng phương tiện vận chuyển tại điểm đến du lịch. Các phương tiện vận chuyển khách du lịch tại các khu du lịch, các điểm du lịch rất phong

phú và đa dạng, trước hết bằng xe ô tô, sau đó là các loại xe thô sơ như: xích lô, ngựa kéo, trâu, bò kéo hoặc bằng thuyền, bằng xe kéo bằng acquy, cáp treo..v.v. Các nhà kinh doanh du lịch còn tạo ra nhiều phương tiện vận chuyển mang tính chất đặc sắc, độc đáo và hấp dẫn để tạo ra. Theo các nhà tâm lý “Động cơ là nhân tố chủ quan khuyến khích mọi người hành động. Động cơ du lịch chỉ ra nguyên nhân tâm lý khuyến khích người ta đi du lịch, đi đâu, theo loại hình du lịch nào, điều này thường được biểu hiện ra bằng các hình thức như nguyện vọng, hứng thú, yêu thích, tìm kiếm điều mới lạ”. Chính vì vậy, ngành du lịch phải tiến hành tuyên truyền, quảng cáo một cách thiết thực, có hiệu quả để kích thích được động cơ du lịch của mọi người. Xét về mặt khoa học, động cơ du lịch được hình thành bởi hai nhân tố rất cơ bản đó là nhân tố tâm lý và nhân tố cụ thể. Nhân tố tâm lý - đó là việc tìm kiếm cảm giác mới lạ, thay đổi nếp sống thường ngày, mở rộng thêm kiến thức, mở rộng tầm nhìn, tìm cách thể hiện mình để được người khác ngưỡng mộ và tôn trọng. Vì thế, người ta thường gọi du lịch là tiêu chuẩn để đánh giá mức độ chất lượng cuộc sống của mỗi người.

2.6 Các cách phân loại khác‌

Ngoài các cách phân loại phổ biến và có ý nghĩa nói trên còn có rất nhiều cách phân chia du lịch thành các loại hình khác. Đó là:

- Căn cứ vào đặc điểm địa lý của điểm đến du lịch bao gồm du lịch biển, du lịch núi, du lịch thành phố (đô thị), du lịch nông thôn (đồng quê, điền dã, trang trại, miệt vườn).

- Căn cứ vào phương tiện lưu trú bao gồm du lịch ở khách sạn, motel, nhà trọ, bãi cắm trại và làng du lịch.

- Căn cứ vào thời gian du lịch bao gồm du lịch dài ngày và du lịch ngắn ngày.Căn cứ vào lứa tuổi bao gồm du lịch thiếu niên, du lịch thanh niên, du lịch trung niên và du lịch cao niên.

- Căn cứ vào hình thức tổ chức du lịch bao gồm du lịch theo đoàn, du lịch gia đình và du lịch cá nhân.

- Căn cứ vào phương thức hợp đồng bao gồm du lịch trọn gói và du lịch từng phần.


Minh họa 2: Sự ra đời và phát triển của du lịch nông thôn trên thế giới

Khái niệm du lịch nông thôn đã manh nha cùng với sự hình thành của ngành

đường sắt ở châu Âu. Tuy nhiên, cho mãi đến những năm đầu của thập niên 80 thế kỷ XX, du lịch nông thôn mới được xem là một loại hình du lịch và phổ biến ở hầu hết các quốc gia ở châu Âu như Pháp, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Điển... Lúc bấy giờ, khái niệm du lịch nông thôn được quan niệm tương đồng với các loại hình du lịch ở nông trại, du lịch di sản, du lịch xanh, du lịch nhà nghỉ ở nông thôn... Sự khác biệt về du lịch nông thôn ở các quốc gia phát triển và quốc gia đang phát triển là ở chỗ: tại các quốc gia đang phát triển, người ta xem du lịch nông thôn là đa dạng hóa thu nhập từ nông nghiệp, góp phần chống đói nghèo, phát huy sức mạnh nội lực của cộng đồng, bảo tồn các giá trị bản sắc văn hóa truyền thống và bảo vệ môi trường. Vì vậy, du lịch nông thôn ở các nước này phát triển theo chiều rộng. Còn ở các quốc gia phát triển thì loại hình du lịch này lại phát triển theo chiều sâu mà nguyên nhân chính là do các khu vực nông thôn ngày càng bị thu hẹp lại.

Ở Pháp, Bộ Du lịch đã phát triển đa dạng hóa các loại hình du lịch (như du lịch bãi biển và du lịch nông thôn) để thu hút du khách nước ngoài. Trong thời gian tới, tại Pháp có khoảng 300 điểm ở các vùng nông thôn sẽ được lựa chọn để thực hiện các dự án lắp đặt các thiết bị, phát triển các phương tiện giao thông công cộng nhằm thu hút khách du lịch quốc tế.

Ở Trung Quốc, từ năm 1990, chính phủ đã tuyên bố một chương trình du lịch nông thôn nhằm mục đích chống đói nghèo tại một số tỉnh như Vân Nam, Quảng Đông... Các điểm du lịch tại những khu vực nông thôn rộng lớn của Trung Quốc hằng năm tiếp đón 300 triệu khách du lịch, đạt doanh thu 40 tỉ NDT (5,13 tỉ USD). Theo các số liệu chính thức của Tổng cục Du lịch Trung Quốc, 30 điểm du lịch nông thôn quanh Thượng Hải đã đón 3,91 triệu khách du lịch trong năm 2006, tăng 86% so với năm 2005; hằng năm có khoảng 60 triệu du khách từ khu vực thành thị chọn đến các vùng nông thôn trong "3 tuần nghỉ vàng" vào tháng 5, tháng 10 và thời gian diễn ra Lễ hội Mùa xuân.

Ở Nhật Bản, từ năm 1995, Bộ Nông Lâm Thủy sản đã thiết lập chương trình nhà nghỉ nông thôn khắp trên đất nước. Các nhà nghỉ nông thôn này chủ yếu do các nông hộ cá thể hay dựa vào trang trại. Du khách được phục vụ các dịch vụ ăn nghỉ

tại các nhà nghỉ nông thôn hoặc tham gia các hoạt động hằng ngày ở đây như trồng trọt, gặt hái, câu cá...

Ở Hàn Quốc, du lịch nông thôn bắt đầu vào năm 1984 từ một dự án của chính phủ nhằm tăng thu nhập cho nông dân. Nhiều làng quê Hàn Quốc trước đây vốn nghèo nàn, nhờ chương trình này mà bộ mặt đã thay đổi hẳn, thu nhập của nông dân tăng lên đáng kể.

Ở Thái Lan, từ lâu chính phủ đã có chính sách khuyến khích đầu tư phát triển du lịch nông thôn theo mô hình các trang trại hoặc các khu làng khép kín, có đầy đủ các dịch vụ phục vụ du khách. Từ năm 1997, du lịch nông thôn đã phát triển khá nhanh, thu hút nhiều du khách nội địa và quốc tế.

Ngoài ra, du lịch nông thôn còn có ở hầu hết các quốc gia trên thế giới như Mỹ, Ô- xtrây-li-a, Ca-na-đa, Lat-vi-a, Tây Ban Nha, In-đô-nê-xi-a, Nê-pan, Ấn Độ... Đáng chú ý là Anh, Pháp, Đức và Áo là những quốc gia thống trị thị trường du lịch nông thôn toàn cầu với hàng ngàn doanh nghiệp kinh doanh loại hình du lịch này ở mỗi nước.

Do những điều kiện kinh tế, xã hội, tự nhiên khác nhau, nên hình thức du lịch nông thôn cũng khác nhau theo từng vùng, quốc gia, lãnh thổ. Chẳng hạn, ở Ô-xtrây-li-a, du lịch nông thôn chủ yếu dựa vào các trang trại lớn; ở Nhật Bản, hình thức du lịch chủ yếu là các nhà nghỉ thân thiện ở nông thôn; ở Hàn Quốc, du lịch nông thôn được tổ chức theo các trang trại nhỏ; ở Đài Loan, du lịch nông thôn được tổ chức theo nhóm sở thích của cộng đồng; Trung Quốc và Ấn Độ là những quốc gia có nhiều làng nên du lịch nông thôn được tổ chức theo quy mô làng. Phát triển du lịch nông thôn sẽ góp phần bảo tồn di sản và bảo vệ môi trường; giảm nghèo thông qua phát triển kinh kế nông thôn, phát triển ngành, nghề; giúp phát triển du lịch sinh thái và các loại hình du lịch khác; giáo dục, huấn luyện và tăng cường kỹ năng cho cộng đồng; tạo việc làm cho phụ nữ và sử dụng sản phẩm địa phương, giúp phát triển nông nghiệp sinh thái.

(Nguồn: www.vietnamtourism.gov.vn)

3.Nhu cầu du lịch và sản phẩm du lịch‌

3.1. Nhu cầu du lịch‌

Khi hỏi một người là tại sao đi du lịch, họ có thể đưa ra một loạt các lý do khác nhau, chẳng hạn như khám phá những điều mới lạ, nghỉ ngơi thư giãn, học hỏi những kiến thức mới, biết đó biết đây,…Tất cả các lý do đó có được gọi là động cơ du lịch không? Phần nghiên cứu dưới đây sẽ nhằm chỉ rõ sự khác biệt giữa lý do đi du lịch và động cơ du lịch.

3.1.1. Lý do đi du lịch

Con người đi du lịch vì rất nhiều lý do khác nhau. Với một số người, du lịch đồng nghĩa với những kinh nghiệm bổ ích nhất; với một số người khác, các hoạt động được tham gia ở nơi đến du lịch là quan trọng nhất. Trong khi hầu hết mọi người đi du lịch để nghỉ ngơi, thư giãn thì một số người lại vì những lý do khác. Các nhà quản lý hoặc điều hành kinh doanh có thể chọn kỳ nghỉ cuối tuần bằng chuyên đi câu cá, chơi golf nhằm xua tan những căng thẳng, mệt mỏi hay va chạm trong công việc hàng ngày. Học sinh, sinh viên đến các miền quê để muốn có những khoảng thời gian vui vẻ, vô tư với những kỷ niệm khó quên. Nhiều khách du lịch muốn tìm hiểu dân cư ở các nơi khác, quốc gia khác sinh sống như thế nào để khám phá những phong tục tập quán hay để thẩm nhận các giá trị văn hóa khác. Họ muốn thưởng ngoạn những phong cảnh nổi tiếng và khác lạ như Vịnh Hạ Long, Vạn Lý Trường Thành, Kim Tự Tháp…Nhiều du khách còn muốn tham dự những sự kiện đặc biệt của nơi đến du lịch.

Nhiều người trở về với quê hương, xứ sở của mình để thăm họ hàng, người thân hay bạn bè để thỏa mãn nỗi lòng nhớ nhung. Những tín đồ tôn giáo thường tham gia các cuộc hành hương đến những nơi linh thiêng của tôn giáo mình. Hay đơn giản hơn, một số du khách vượt qua những chặng đường xa xôi chỉ để tìm kiếm ánh nắng mặt trời và thời tiết ấm áp hoặc trốn tránh mùa có thời tiết khắc nghiệt nơi mình sinh sống.

Ở những quốc gia phát triển, người dân có ý thức hơn về giữ gìn sức khỏe, họ bị thu hút bởi các hoạt động thể dục thể thao như: đua xe đạp, đua thuyền, lướt ván trượt tuyết, leo núi… thực sự thu hút được số đông khách du lịch. Các chương trình thể thao, các kỳ nghỉ gắn với nhiều hoạt động thể thao ngày càng trở nên phổ biến ở các quốc gia này.

Sau một chuyến du lịch, khi về có nhiều điều để kể với người thân, bạn bè có thể là sở thích đối với một số người. Khi điều kiện kinh tế được cải thiện, du lịch càng trở thành một phần rất quan trọng trong cuộc sống mỗi người. Người dân quan tâm đến du lịch giống như quan tâm đến nhà cửa, xe cộ hoặc mốt thời trang. Du lịch tạo cơ hội cho người được sống trong cái đẹp, được phục vụ, được thoát khỏi những phiền toái hàng ngày và những hạn chế xã hội thông thường.

Như vậy, lý do đi du lịch của mỗi người là rất khác nhau và đa dạng. Nó phản ánh sự nhận thức động cơ và bộc lộ động cơ của chuyến đi. Một số công trình nghiên cứu tập trung vào việc phát triển danh mục các lý do mà con người đi du lịch và coi đó như là những động cơ đi du lịch của họ. Tuy nhiên, theo Mill và Morrison không phải tất cả các lý do được nêu đều phản ánh đúng động cơ du lịch. Cách tiếp cận như vậy để hiểu biết động cơ du lịch là chưa thỏa đáng vì hai lý do. Thứ nhất, bản thân những người đi du lịch có thể không nhận biết được những lý do thực (động cơ) ẩn sau hành vi đi du lịch của họ. Một người tham gia chuyến du lịch câu cá ở ngoại ô vào kỳ nghỉ cuối tuần có thể đơn giản cho rằng lý do chuyến đi là để câu cá. Nhưng khi được hỏi, người này mới có thể khám phá ra rằng vấn đề hồi phục sức khỏe đã thúc đẩy chuyến đi. Du khách có thể không muốn bộc lộ lý do thực ẩn sau một chuyến đi. Họ sẽ không thoải mái thừa nhận lý do chính của chuyến đi du lịch là họ sẽ có thể “gây ấn tượng” với bạn bè sau khi trở về. Thứ hai, tất cả các lý do đưa ra giải thích một cách thích đáng cho động cơ người tiêu dùng vì chúng mới chỉ tập trung vào việc bán sản phẩm hơn là thỏa mãn các nhu cầu của thị trường.

Theo TS. Harssel (trường Đại học Niagara, NewYork), những lý do con người đi du lịch bộc lộ động cơ chuyến đi gồm 4 nhóm:

- Tự khám phá

Con người đi du lịch sẽ hiểu biết về bản thân mình thông qua hiểu biết thế giới xung quanh. Du lịch kết nối du khách với một thế giới mà họ chưa hiểu và chưa biết một cách chính xác thông qua công việc và các hoạt động hàng ngày của họ. Nhận thức thế giới có thể thông qua sách báo, phim ảnh và các phương tiện thông tin, nhưng bằng hình thức đi du lịch, du khách được tiếp xúc trực tiếp với thế giới, tự do khám phá những điều

Xem tất cả 160 trang.

Ngày đăng: 31/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí