phải làm thay, đây cũng là nguyên nhân dẫn đến việc áp dụng PLHS của Thẩm phán còn chưa thực sự đạt yêu cầu. Ngoài ra, chế độ đãi ngộ đối với cán bộ công chức ngành Tòa án như đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân vẫn còn thấp và chưa thỏa đáng, dễ bị ảnh hưởng bởi những tiêu cực trong nền kinh tế thị trường.
Chính sách đãi ngộ cán bộ công chức ngành Tòa án vẫn chưa thực sự được quan tâm, chưa tương xứng với tính chất công việc, chưa có các cơ chế để thu hút các cán bộ có năng lực, trình độ vào ngành công tác. Điều này dẫn đến tình trạng: lương thấp, áp lực công việc quá nhiều dẫn đến trong thời gian gần đây Tòa án xảy ra hiện tượng “chảy máu chất xám”, số lượng cán bộ, công chức ngành Tòa án xin nghỉ việc ngày càng tăng.
- Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, hướng dẫn, tập huấn các quy định mới của BLHS năm 2015, BLTTHS năm 2015 của các ngành tư pháp Quận 7, TAND Quận 7 nói riêng đối với công tác áp dụng PLHS trong xét xử vụ án về ma túy còn chưa bảo đảm tính chuyên sâu, đồng bộ, chưa kịp thời đưa ra các giải pháp, thông báo rút kinh nghiệm nhằm khắc phục ngay những hạn chế, tồn tại trong công tác áp dụng PLHS từ trước đến nay nhất là trong thời điểm hiện tại, khi mà BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và BLTTHS năm 2015 vừa có hiệu lực thi hành với nhiều thay đổi trong quy định cả về nội dung lẫn hình thức áp dụng PLHS.
Tiểu kết chương 2
Qua nghiên cứu cơ sở lý luận tại chương 1, tại Chương 2 tác giả đã nêu tổng quan tình hình hình xét xử tội tàng trữ trái phép chất ma túy tại Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh dựa vào các số liệu thống kê thực tế các vụ án liên quan đến tội này.
Từ đó, tác giả tiếp tục đi sâu phân tích thực tiễn việc định tội danh và thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Dựa trên những kết quả cập nhật thống kê, so sánh, phân tích trong việc định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội phạm về ma túy, đặc biệt là tội tàng trữ trái phép chất ma túy trong thời gian từ năm 2016 đến năm 2020.
Trên cơ sở phân tích thực tiễn, tác giả đã chỉ ra những khó khăn, hạn chế vướng mắc và nguyên nhân. Việc khắc phục kịp thời những hạn chế, sai phạm đó sẽ làm cho việc định tội danh và quyết định hình phạt đúng đắn hơn, hạn chế oan sai, góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, nhất là đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
Từ những phân tách đỏ, tác giả sẽ đưa ra cụ thể các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội Tàng trữ trái phép chất ma túy được thể hiện ở Chương 3.
Có thể bạn quan tâm!
- Quy Định Của Bộ Luật Hình Sự 2015 Về Tội Tàng Trữ Trái Phép Chất Ma Túy
- Thực Tiễn Định Tội Danh Tội Tàng Trữ Trái Phép Chất Ma Túy
- Thực Tiễn Quyết Định Hình Phạt Theo Cấu Thành Tội Phạm Cơ Bản
- Nâng Cao Năng Lực, Phẩm Chất Trình Độ Nhận Thức, Áp Dụng Các Quy Định Của Pháp Luật Hình Sự Đối Với Người Tiến Hành Tố Tụng
- Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh - 11
- Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh - 12
Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.
Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
3.1.1. Yêu cầu bảo đảm thực hiện đầy đủ quyền con người, quyền công dân được quy định tại Hiến pháp 2013 và Bộ luật Hình sự 2015
Quyền con người hiểu một cách khái quát thì đó là những quyền bẩm sinh, vốn có từ khi sinh ra mà nếu không được hưởng thì chúng ta không thể sống như một con người. Quyền con người là vốn có, tự nhiên mà có, không do một chủ thể nào ban phát, được áp dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi người, không thay đổi theo thời gian và không phụ thuộc vào biên giới một lãnh thổ, quốc gia nào.
Quyền công dân có nội dung hẹp hơn quyền con người và gắn liền với từng lãnh thổ, quốc gia (nhà nước pháp điển hóa một số quyền tự nhiên của con người và quy định thành quyền công dân). Cho nên, quyền công dân không được áp dụng chung cho tất cả các quốc gia mà chỉ được áp dụng cho duy nhất một quốc gia. Thực tế, quyền công dân chỉ là những quyền con người được các nhà nước thừa nhận, áp dụng cho riêng công dân của mình; thể hiện vị thế của mỗi cá nhân trong quan hệ với quốc gia mà cá nhân đó là công dân.
Ở Việt Nam, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn được tôn trọng và bảo đảm. Quyền con người, quyền công dân được quy định tại Chương II: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân của Hiến pháp năm 2013.
Quyền con người được quy định trong Hiến pháp Việt Nam đã thể hiện quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đó là: Quyền con người vừa là động lực vừa là mục tiêu sự phát triển đất nước, thể hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Một số quyền như quyền được sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc, tự do, bình đẳng… là những quyền cơ bản của con người được
khẳng định trong Hiến pháp năm 2013 của nước ta. Hơn nữa Hiến pháp năm 2013 còn là căn cứ pháp lý cao nhất để bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân là định hướng lớn của Đảng và nhà nước trong quá trình cải cách tư pháp, còn pháp luật hình sự cụ thể hóa việc bảo vệ quyền con người và quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp quy định, theo đó các quyền và tự do cơ bản của con người với mục tiêu và quan trọng nhất là tiếp tục phát huy dân chủ, bảo đảm chủ quyền nhân dân, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền con người.
Tại Điều 1 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định nhiệm vụ của BLHS đó là đã khẳng định về bảo vệ quyền con người và cụ thể hóa việc bảo vệ quyền con người và quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp quy định. Trong đó, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) đã có nhiều quy định mới để thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc của nước ta như thay đổi tuổi chịu TNHS, các biện pháp áp dụng kèm theo miễn TNHS đối với người dưới 18 tuổi, tha tù trước thời hạn có điều kiện,…
Cần lưu ý rằng, cần phải áp dụng triệt để nguyên tắc suy đoán vô tội trong BLTTHS, theo đó không một ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Cho nên, việc định định tội danh và quyết định hình phạt không đúng đối với người phạm tội là biểu hiện của vi phạm quyền con người của người bị buộc tội. Cho nên, để tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong lĩnh vực hình sự cần thiết phải áp dụng đủ và đúng PLHS.
3.1.2. Yêu cầu áp dụng đúng các quy định của Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017)
Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng PLHS đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy trước hết xuất phát từ tầm quan trọng của việc thực hiện đúng các quy định của BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Việc thực hiện đúng các quy định của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đó là thực hiện nghiêm chỉnh chính sách hình sự mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra, được phản ánh và thể chế hóa trong các quy định của BLHS nói chung và các quy định về tội tàng trữ trái phép chất ma túy nói riêng.
Thực hiện đúng các căn cứ pháp luật cũng như các nguyên tắc, quan điểm đã được cụ thể hóa trong từng điều luật như: tuân thủ đúng nguyên tắc khi xử lý; xác định đúng hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định là tội tàng trữ trái phép chất ma túy; xác định năng lực TNHS, các căn cứ QĐHP,... tóm lại là phải tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc, căn cứ và cơ sở để định đúng tội danh và QĐHP.
Ngoài việc phải thực hiện đúng các quy định của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì các cơ quan tiến hành tố tụng cần áp dụng đúng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự vì đây là những nguyên tắc trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hình sự.
Thực hiện đúng các quy định của BLHS mới còn bao hàm cả việc thực hiện đúng các văn bản dưới luật và các văn bản hướng dẫn thi hành BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) trong thực tiễn giải quyết.
3.1.3. Yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Được đặt trong bối cảnh của cải cách tư pháp, việc đảm bảo hiệu quả ADPL hình sự của TAND nói chung, TAND Quận 7 nói riêng về nguyên tắc cũng phải được thực hiện trên cơ sở những quan điểm và định hướng của cải cách tư pháp. Những nội dung này được nêu rò trong Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” [13] và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, với mục tiêu: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu hiệu quả và hiệu lực cao” [15]. Nhiệm vụ này nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới nền tư pháp nước ta ngày càng trở nên trong sạch, vững mạnh, công bằng, văn mình, phục vụ cho việc xây dựng đất nước, từ đó hội nhập quốc tế và nâng cao vai trò, vị thế của nước ta, Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân và vì dân.
Những nguyên tắc đặc trưng như: độc lập, khách quan và chỉ tuân theo pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải được quy định đầy đủ trong Bộ luật tố tụng hình sự. Điều này được cho là hoàn toàn phù hợp với quan điểm định hướng “Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” [12].
Ngoài ra, một trong những yêu cầu cốt lòi, không thể không nhắc đến trong việc cải cách tư pháp hình sự và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đó là phải đặt mục tiêu dưới sự lãnh đạo của Đảng, phải tuân thủ và thống nhất các chính sách, chủ trương, đường lối và nghị quyết của Đảng. Đồng thời, phải có tinh thần phát huy trí tuệ, tổng hợp sức lực của toàn dân vào công cuộc cải cách tư pháp và xây dựng nà nước pháp quyền XHCN và phải đặt dưới sự giám sát của Nhân dân cùng các cơ quan dân cử để thực hiện.
Ngoài ra, việc cải cách tư pháp hình sự và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN còn có yêu cầu khác rất quan trọng đó là yêu cầu về một đội ngũ cán bộ có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự, trong đó có các cán bộ như Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán phải có năng lực, trình độ, chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ và đạo đức trong quá trình áp dụng các quy định của PLHS. Bởi vì, trong việc cải cách đổi mới các cơ quan tư pháp hình sự theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân đòi hỏi các những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự như Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và cả Hội thẩm nhân dân phải nâng cao năng lực áp dụng các quy định của PLHS, qua đó tìm ra những bất cập trong thực tiễn và đề xuất, kiến nghị sáng kiến đổi mới và hoàn thiện hệ thống PLHS vì con người, lấy con người là trung tâm phụng sự.
Một nhà nước pháp quyền XHCN không bao giờ chấp nhận sự tồn tại của bất kỳ bản án hay quyết định trái pháp luật nào, bởi hiệu lực của bản án, quyết định do TAND ban hành có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo hoặc người bị kết tội, khả năng xảy ra oan, sai, bỏ lọt tội phạm rất cao. Do đó, về việc ban hành văn bản ADPL hình sự của TAND đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, thì ngay từ những khâu đầu tiên của quá trình ADPL hình sự cần phải thực
hiện nghiêm túc, đúng tinh thần cải cách tư pháp, theo đó, người có thẩm quyền áp dụng PLHS trong xét xử nói chung, trong hoạt động xét xử tội tàng trữ trái phép chất ma túy nói riêng cần nắm vững những quy định của pháp luật, tuân thủ tuyệt đối các quy định về trình tự, thủ tục, tố tụng trong giai đoạn xét xử, trên cơ sở các quy định của pháp luật nội dung và pháp luật hình thức xác định tội danh phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, từ đó, làm căn cứ lựa chọn quy phạm pháp luật để áp dụng hình phạt tương xứng, không quá nặng cũng không quá nhẹ nhưng vẫn đảm bảo khoan hồng với bị cáo.
3.1.4. Yêu cầu của xu thế hội nhập quốc tế
Nước ta đang trong quá trình hội nhập mạnh mẽ, toàn diện với tất cả các quốc gia trên thế giới, từ ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế, tình hình tội phạm ở Việt Nam đã diễn biến phức tạp, một số loại tội phạm có chiều hướng gia tăng, trong đó có tội phạm về ma túy nói chung, tội tàng trữ trái phép chất ma túy nói riêng.
Hội nhập kinh tế quốc tế và quá trình toàn cầu hóa, ranh giới giữa đối tác và đối tượng đan xen rất khó phân biệt. Tội phạm ma tuý có điều kiện thâm nhập vào các khu kinh tế, khu chế xuất, các doanh nghiệp liên doanh có vốn nước ngoài để sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép các chất ma tuý. Các loại ma tuý mới, nhất là ma tuý tổng hợp dễ có điều kiện thâm nhập vào Việt Nam thông qua hợp tác đầu tư kinh tế, văn hoá, giáo dục, đặc biệt lối sống thực dụng, tha hoá, tiềm ẩn nguy cơ tình trạng sử dụng ma tuý tổng hợp trong thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên có nguy cơ gia tăng.
Do đó, vấn đề cấp thiết đặt ra là phải xác định chính xác những hành vi phạm tội, xác định đúng tội danh, QĐHP đúng và xử lý nhanh chóng kịp thời, nghiêm minh những tội phạm đó, đồng thời phải đảm bảo phù hợp với các thỏa thuận mà nước ta đã ký kết nhằm bảo vệ pháp lý, bảo vệ an ninh, trật tự trong nước và tạo điều kiện mở rộng hội nhập quốc tế.
Trong bối cảnh nước ta đang trong tiến trình hội nhập Quốc tế, và là thành viên chính thức của nhiều công ước quốc tế đã ký kết về phòng, chống tội phạm. Vì vậy các quy định của pháp luật Việt Nam nói chung và PLHS nói riêng, trong đó có
tội tàng trữ trái phép chất ma túy cũng cần phải được sửa đổi cũng như bổ sung cho phù hợp với các quy định bắt buộc của công ước quốc tế. Ngoài ra, việc áp dụng các quy định của PLHS đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy còn phải đảm bảo yêu cầu hội nhập của nước ta với quốc tế để phù hợp với tình hình thực tế xã hội ở nước ta trong bối cảnh thực tế xã hội hiện nay.
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Từ những yêu cầu áp dụng đúng pháp luật hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy của TAND Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế, nâng cao chất lượng công tác định tội danh và quyết định hình phạt trong xét xử sơ thẩm các vụ án liên quan đến tội tàng trữ trái phép chất ma túy trên địa bàn Quận 7 Thành phố Hồ Chí Minh đáp ứng các quy định mới của BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và BLTTHS năm 2015,… tác giả xin đưa ra một số giải pháp kiến nghị sau đây:
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, hoàn thiện khái niệm “chất ma túy”
Cho đến nay, khái niệm thế nào là ma túy đã được quy định trong hai văn bản chính chức là Luật phòng chống ma túy năm 2000 (sửa đổi năm 2008) và Thông tư liên tịch số 17/2007.
Theo quy định của Luật phòng chất ma túy năm 2000 thì ma túy (chất ma túy) được định nghĩa: “Chất ma túy là các chất gây nghiện và các chất hướng thần được quy định trong danh mục do Chính phủ ban hành” [20]
Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, TAND tối cao, Bộ Tư pháp cũng đưa ra khái niệm chất ma túy tương tự như Luật phòng chống ma túy năm 2000 nhưng chi tiết hơn (tiểu mục 1.1, mục 1 Phần I).
Như vậy, có thể thể thấy theo quy định tại Luật phòng chống ma túy 2000 và Thông tư liên tịch số 17/2007, chất ma túy được hiểu là các chất gây nghiện, chất hướng thần.