Thực Tiễn Quyết Định Hình Phạt Theo Cấu Thành Tội Phạm Cơ Bản

Tổng số vụ án TAND Quận 7 xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” trong 05 năm từ 2016 đến 2020 là 226 vụ (Bảng 2.1), số vụ án có kháng là 77/226 vụ (Bảng 2.5). Trong đó, số lượng vụ án có quyết định hình phạt theo cấu thành tội phạm cơ bản (khoản 1, có mức hình phạt đến 03 năm tù) là 194/226 vụ, chiếm tỷ lệ khoảng 85,8%; Quyết định hình phạt theo cấu thành tội phạm tăng nặng (các khoản 2,3,4, có mức hình phạt trên 03 năm tù) là 32/226 vụ, chiếm tỷ lệ khoảng 14,2%.

2.3.1. Thực tiễn quyết định hình phạt theo cấu thành tội phạm cơ bản

Bản án số 95/2018/HSST ngày 29/8/2018 của TAND Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

Vào lúc 21 giờ ngày 27/4/2018 tại hẻm 903 đường Trần Xuân Soạn, phường Tân Hưng, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội cảnh sát điều tra về tội phạm Ma túy – Công an Quận 7 tuần tra phát hiện lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Ngọc H về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thu giữ trên tay trái của H có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu.

Kết luận giám định số 804/KLGĐ-H ngày 04/5/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh: Tinh thể không màu trong 01 túi nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Ngọc H và hình dấu Công an phường Tân Hưng, Quận 7 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4,9834g, loại Methamphetamine.

Tại Công an Quận 7, H khai nhận: Số ma túy công an thu giữ là của H mua của 01 người phụ nữ tên P (không rò lai lịch) tại hẻm 1041, phường Tân Hưng, Quận 7 với giá 2.800.000 đồng, đồng thời mượn xe máy của P đi thuê khách sạn sử dụng thì bị bắt quả tang. H nghiện ma túy từ tháng 10 năm 2017 đến nay.”

Về các căn cứ xác định các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS, Hội đồng xét xử nhận định: “Xét, trong quá trình điều tra và tại phiên Tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội. Nên, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo – quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).”

Trong vụ án này, quyết định hình phạt theo cấu thành tội phạm cơ bản của tội Tàng trữ trái phép chất ma túy trong phần quyết định của bản án: “Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Áp dụng điểm c khoản

1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt: Trần Ngọc H, 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/4/2018.

2.3.2. Thực tiễn quyết định hình phạt theo cấu thành tội phạm tăng nặng

Đối với trường hợp quyết định hình phạt tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo cấu thành tội phạm tăng nặng, chẳng hạn như tại bản án số 109/2020/HS-ST ngày 09/9/2020 của TAND Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh trong phần Thực tiễn định tội danh theo cấu thành tội phạm tăng nặng tại mục 2.1.1.1 của Luận văn này, TAND Quận 7 đã quyết định hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Công M theo cấu thành tội phạm tăng nặng dựa vào tổng khối lượng ma túy mà bị cáo tàng trữ trái phép làm cơ sở để định khung hình phạt tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Vì vậy, việc định tội danh của VKSND Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội. Về căn cứ tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS, Hội đồng xét xử nhận định: “Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bản thân bị cáo là lao động chính trong gia đình nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017”. Từ đó, Tòa án đã quyết định: “Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Công M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ vào điểm h khoản 3 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Nguyễn Công M 10 (mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/04/2020.

2.3.3. Thực tiễn quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm

Bản án số 94/2019/HSST ngày 16/7/2019 của TAND Quận 7. Thành phố Hồ Chí Minh

“Lúc 22 giờ 25 phút ngày 17/01/2019 tại ngã tư Lê Văn Lương – Nguyễn Thị Thập, phường Tân Hưng, Quận 7, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an Quận 7 phát hiện bắt quả tang Nguyễn Duy A có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và ngồi sau xe máy hiệu Suzuki biển số 71V1-2787 do Đặng Văn T

điều khiển. Thu giữ trong lòng bàn tay phải của A 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, là ma túy.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an Quận 7, Đặng Văn T, Nguyễn Duy A khai nhận: số ma túy công an thu giữ do A mua của Nguyễn Hoài N ở hẻm 380 Lê Văn Lương, khu phố 1, phường Tân Hưng, Quận 7. A và T mỗi người hùn 100.000 đồng, A trực tiếp vào nhà N mua, còn T điều khiển xe và đứng bên ngoài chờ.

Bản kết luận giám định số 444/KLGĐ-H ngày 22/01/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- Gói 2: Tinh thể không màu trong 01 túi nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Duy A và hình dấu Công an phường Tân Hưng, Quận 7 là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1056g (không phẩy một không năm sáu gam), loại Methamphetamine.

Các bị cáo Đặng Văn T, Nguyễn Duy A, khai nhận hành vi mua bán ma túy của N tàng trữ để sử dụng, thì bị bắt quả tang.”

Tại bản án này, TAND Quận 7 đã quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Tuy nhiên, xét thấy trong quá trình điều tra các bị cáo và tại phiên tòa, bị cáo A, T đã thành khẩn khai bảo, ăn năng hối cải; Riêng đối với bị cáo A, T trong quá trình điều tra các bị cáo chưa thành khẩn khai báo tuy nhiên tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải; các bị cáo đều mới phạm tội lần đầu, bị cáo T bị bệnh hiểm nghèo (lao phổi, HIV giai đoạn cuối), bị cáo A bị bệnh nặng, có người thân có công với cách mạng. Đây là tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Các bị cáo T, A, phạm tội không nhằm mục đích thu lợi bất chính nên xem xét miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tòa án đã quyết định: “Tuyên bố: Các bị cáo Đặng Văn T, Nguyễn Duy A, cùng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt: bị cáo Đặng Văn T 01 năm 03 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/01/2019; Xử phạt: bị cáo Nguyễn Duy A 01 năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày 17/01/2019.

2.4. Những hạn chế, khó khăn và nguyên nhân từ thực tiễn xử lý tội tàng trữ trái phép chất ma túy tại địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh

Nhìn chung trong thời gian qua, trong giai đoạn từ năm 2016 đến 2020, hoạt động ADPL hình sự của CQĐT,VKS,TA trong công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự nói chung, các vụ án về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy nói riêng đã đạt được những kết quả nhất định. Đồng thời, do chiếm số lượng lớn trong tổng số các vụ án hình sự được xét xử sơ thẩm nên việc áp dụng PLHS trong định tội danh các tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” luôn được các cơ quan tiến hành tố tụng Quận 7 chú trọng thực hiện cẩn thận nhằm bảo đảm việc định tội danh đối với tội phạm này nghiêm túc, đúng đắn và chính xác.

Bảng 2.5: Thống kê số lượng án bị cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm hủy, sửa đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Năm

TAND Quận 7

xét xử sơ thẩm

TAND TP.HCM

xét xử phúc thẩm

TAND

cấp cao

Số vụ

Số bị cáo

Kháng nghị

Kháng cáo

Đình chỉ

Y

án

Hủy

Sửa

Giám đốc

thẩm

Tái thẩm

2016

61

79

0

29

0

28

0

1

0

0

2017

48

55

0

13

0

13

0

0

0

0

2018

43

49

0

5

0

5

0

0

0

0

2019

52

57

0

21

0

18

0

3

0

0

2020

22

31

0

9

0

9

0

0

0

0

Cộng

226

271

0

77

0

73

0

4

0

0

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.

Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh - 8

(Nguồn: Tòa án nhân dân Quận 7) Qua số liệu thống kê trên, nhận thấy kết quả xét xử cấp sơ thẩm của TAND

Quận 7 đạt kết quả khá cao, đảm bảo đúng thời hạn tố tụng, hình thức và trình tự thủ tục theo luật định. Trong thời hạn 5 năm từ 2016 đến 2020 không có vụ nào bị cơ quan VKS kháng nghị, có tổng cộng 77 vụ kháng cáo của bị cáo với nội dung chính là xin giảm nhẹ hình phạt (Có 4 vụ bị sửa án, trong đó 2016 có 01 vụ, 2019 có 03 vụ), còn các bị cáo còn lại đều đồng tình với mức hình phạt mà TAND Quận 7

đã tuyên và không có kháng cáo. Điều này cho thấy TAND Quận 7 đã xét xử các bị cáo trong vụ án một cách công tâm, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Các vụ án sơ thẩm của TAND Quận 7 bị cấp phúc thẩm sửa đa phần là do HĐXX đã tuyên mức hình phạt cho các bị cáo có phần nghiêm khắc, chưa xem xét hết các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của vụ án, có thể lấy ví dụ vụ án như sau:

Vụ án: Bị cáo Vò Minh Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị TAND Quận 7 tuyên phạt 02 (hai) năm tù theo Bản án số 186/2019/HSST ngày 15/6/2019 của TAND Quận 7.

Bản án hình sự phúc thẩm số 349/2019/HSST ngày 17/9/2019 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ TNHS cho bị cáo là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự để giảm nhẹ một phần TNHS cho bị cáo. Tuy nhiên, mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng với bị cáo là có phần nghiêm khắc nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Từ đó, Tòa án cấp phúc thẩm đã tuyên: “Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Vò Minh Đ, sửa bản án sơ thẩm. Xử phạt bị cáo Vò Minh Đ 01 (một) năm tù”.

Như vậy, Tòa án cấp phúc thẩm đã nhận định một cách khách quan, đầy đủ tất cả các tình tiết giảm nhẹ, đánh giá đúng mức độ hành vi của bị cáo Đ cũng như chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước đối với bị cáo, tuyên giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp với quy định, có tình, có lý.

Những khó khăn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật

Từ những kết quả xét xử đối với tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2016 - 2020 có những hạn chế nhất định vướng mắc từ nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau:

Thứ nhất, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể dẫn đến tình trạng xung đột trong định tội danh giữa tội mua bán và tàng trữ trái phép chất ma túy. Trong thực tiễn vẫn xảy ra trường hợp: trong suốt quá trình điều tra, truy tố, bị can đều khai nhận tàng trữ trái phép chất ma túy với mục đích là để có ai mua thì đem bán, nhưng cơ quan tố tụng có thẩm quyền đánh giá chứng cứ cho rằng: ngoài lời khai

của bị can thì không xác định được người mua ma túy cụ thể là ai nên không đủ căn cứ xác định bị can phạm tội Mua bán mà bị can chỉ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Thứ hai, có một số vụ án khi quyết định hình phạt, TAND Quận 7 chưa đánh giá đúng tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, chưa xem xét hết các tình tiết của vụ án, cũng như chưa áp dụng hết các quy định của pháp luật dẫn đến việc quyết định hình phạt còn quá nhẹ hoặc quá nặng. Điều này thể hiện qua vụ án mà cấp phúc thẩm đã sửa bản án hình sự sơ thẩm của TAND Quận 7, thể hiện qua vụ án mà cấp phúc thẩm đã sửa bản án sơ thẩm của TAND Quận 7 như sau:

Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 496/2016/HSPT ngày 25/8/2016 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh đã nhận thấy, sau khi tiến hành điều tra bổ sung, giám định lại hàm lượng để xác định trọng lượng ma túy của bị cáo vi phạm, xác định chất ma túy do bị cáo tàng trữ được là dưới mức quy định, theo đó miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo nhưng bị cáo phải bị xử lý hành chính. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm chưa xem tình tiết quy định tại khoản 2 Điều 7 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đó là :”... các Điều luật quy định bổ sung hành vi phạm tội mới ... thì không được áp dụng đối với hành vi phạm tội đa thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành...”. Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại điểm c khoản 1 quy định “..., Methamphetamine,... có khối lượng từ 0,1g đến dưới 5g”, đây là quy định bổ sung tình tiết mới nặng hơn quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 (được hướng dẫn tại Thông tư 17 nêu trên) nên không được áp dụng để xử lý bị cáo. Do vậy, chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Nguyễn Hoàng Thanh X cho Cơ quan có thẩm quyền để xử phạt hành chính theo quy định tại Điều 64 Luật xử lý vi phạm hành chính. Từ đó, TAND TP.HCM đã quyết định: “Chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hoàng Thanh X, Tuyên bố miễn trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Nguyễn Hoàng Thanh X về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo Nguyễn Hoàng Thanh X không phải nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 đồng.

Từ Bản án số 104/2016/HSST ngày 27/4/2016 của TAND Quận 7 cho thấy, TAND Quận 7 đã không xem xét hết các tình tiết của vụ án, cụ thể là trọng lượng của ma túy sau khi giám định lại chỉ còn 0,9379g Methamphetamine, dưới mức truy cứu trách nhiệm hình sự theo hướng dẫn tại Thông tư 17/2007; chưa xem xét tình tiết quy định theo hướng có lợi cho bị cáo được quy định khoản 2 Điều 7 BLHS 2015.

Tòa án cấp phúc thẩm đã vận dụng tối đa các tình tiết có lợi cho bị cáo được pháp luật quy định, việc giảm nhẹ hình phạt giúp bị cáo cảm có niềm tin vào pháp luật hơn, sẽ không tâm lý bị trừng trị mà sinh ra thù hằn, ngược lại việc giảm mức hình phạt chắc chắn sẽ làm cho bị cáo quyết tâm cải tạo tốt hơn, hoàn lương và tái hòa nhập với cộng đồng, trở thành người có ít cho xã hội. Từ đó, bản án phúc thẩm cho thấy được sự khoan hồng, giúp cho bị cáo cảm thấy thuyết phục, nhận thức được tính nhân đạo XHCN mà Đảng và Nhà nước dành cho bị cáo, từ đó quyết tâm cải tạo tốt hơn.

Nguyên nhân dẫn đến hạn chế, khó khăn từ thực tiễn:

- Chính sách pháp luật chưa thực sự hoàn thiện. Các quy định giảm nhẹ TNHS tại khoản 2 Điều 51 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) còn thiếu tính cụ thể khiến các cơ quan tiến hành tố tụng tính tùy nghi áp dụng PLHS. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chưa đầy đủ, chưa đồng bộ dẫn đến việc các cơ quan tiến hành tố tụng gặp khó khăn khi áp dụng. Mặc dù BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) đã được ban hành thay thế BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2018, trong khi đó hệ thống các văn bản hướng dẫn xử lý các tội phạm về ma túy theo quy định của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) vẫn chưa được hoàn thiện. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng vẫn phải sử dụng những tư tưởng, định hướng cũ quy định tại Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-BTP ngày 24/12/2007 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của BLHS năm 1999 và Thông tư liên tịch số 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC- TANDTC-BTP ngày 14/11/2015 sửa đổi, bổ sung một số điểm của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP để xử lý bị can, bị cáo

phạm tội về ma túy trong khi chính những Thông tư liên tịch này trong quá trình thực hiện từ khi ban hành đến nay đang còn vướng mắc, nhận thức chưa thống nhất trong thực tiễn.

- Trình độ lý luận cũng như nhận thức về áp dụng các quy định của pháp luật hình sự giữa các thẩm phán không đồng đều nhau, bản lĩnh nghề nghiệp của và Thẩm phán trực tiếp thụ lý các vụ án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu công việc.

Thẩm phán giải quyết các vụ án về ma túy vẫn chưa linh động, vẫn còn phụ thuộc nhiều vào kết quả điều tra của CQĐT, cũng như bản cáo trạng truy tố của VKS mà không sáng tạo trong xét xử (trả hồ sơ vụ án làm rò ý kiến tranh luận của Luật sư, trình bày của bị hại... tại phiên tòa). Nguyên nhân của hạn chế này một phần cũng xuất phát từ những nguyên nhân khách quan mà một trong số đó chính là trách nhiệm nặng nề theo quy định riêng của những người làm trong cơ quan TAND (án hủy, sửa, trả hồ sơ điều tra bổ sung quá tỷ lệ sẽ bị mất thi đua, không được tái bổ nhiệm, ...) và nặng hơn là gánh chịu hậu quả pháp lý nếu định tội danh sai dẫn đến oan sai cho người bị kết án.

Trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử án hình sự nói chung và xét xử sơ thẩm án hình sự về ma túy nói riêng, ngoài trình độ chuyên môn về luật và kỹ năng xét xử được đào tạo theo hệ thống thì những kiến thức cần thiết về sự hiểu biết về đặc điểm, tính chất của các loại ma túy, nhất là những loại ma túy mới xuất hiện trên thị trường hiện nay là rất cần thiết cho đội ngũ Thẩm phán, nhưng nhiều Thẩm phán không chịu khó nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề này.

- Cơ sở vật chất và phương tiện làm việc của các cơ quan tiến hành tố tụng Quận 7 tuy đã được thành phố quan tâm nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp. Đây cũng là một nguyên nhân làm cho hoạt động áp dụng PLHS trong khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy của TAND Quận 7 gặp không ít khó khăn. Nhiều Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân trực tiếp áp dụng PLHS chưa được tiếp cận và sử dụng thành thạo phương tiện, thiết bị hiện đại. Bên cạnh đó, lực lượng Thẩm phán còn mỏng khiến cho các Thẩm phán chịu không ít áp lực, một vài Thẩm phán do quá tải đã xin nghỉ việc khiến các Thẩm phán khác

Xem tất cả 99 trang.

Ngày đăng: 25/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí