Lý Luận Quyết Định Hình Phạt Tội Tàng Trữ Trái Phép Chất Ma Túy

bản pháp luật khác. Bản chất của việc định tội danh là so sánh giữa dấu hiệu của một hành vi nguy hiểm cho xã hội nào đó với dấu hiệu tương ứng của một hành vi trong định nghĩa về tội phạm nào đó được quy định trong pháp luật hình sự để tìm sự giống nhau. Trong đó các dấu hiệu nêu trong định nghĩa về một loại tội phạm cụ thể là dấu hiệu mang tính lặp đi lặp lại, ổn định, đặc trưng trong hành vi phạm tội tương ứng xảy ra trong thực tế, những người tiến hành tố tụng trong việc định tội danh sẽ so sánh, đối chiếu với dấu hiệu của một hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra trong thực tế và đưa ra kết luận hành vi nguy hiểm cho xã hội này đã thực hiện thuộc loại nào được quy định trong các quy phạm pháp luật hình sự.

Như vậy, BLHS là một trong những cơ sở pháp lý quan trọng cho toàn bộ quá trình định tội danh, ngoài ra các văn bản pháp luật khác (Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC; Thông tư liên ngành của TANDTC, VKSNDTC, BCA, BTP; Nghị định của Chính phủ ban hành các danh mục chất ma túy và tiền chất ma túy; Luật phòng chống ma túy) chỉ mang tính chất hướng dẫn BLHS để có thể hiểu các điều luật một cách thống nhất, rò ràng hơn. Khi xây dựng các quy phạm pháp luật hình sự, các nhà làm luật đã tìm ra các dấu hiệu nào được xem lặp đi lặp lại nhiều lần nhất hay đặc trưng cơ bản nhất, phổ biến nhất trong những hành vi ấy, sau đó mới pháp điển hóa vào BLHS là các dấu hiệu trong CTTP. Các điều luật về tội phạm cụ thể trong BLHS mô tả đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng, phổ biến bắt buộc không thể thiếu của một loại CTTP, các dấu hiệu đó có quan hệ chặt chẽ với nhau để người định tội danh có cơ sở pháp lý để so sánh, đối chiếu với hành vi phạm tội đã xảy ra.

Các QPPL trong BLHS nước ta được chia làm hai phần là quy phạm pháp luật phần chung và quy phạm pháp luật phần các tội phạm. Trong đó, phần chung quy định các chế định cơ bản, nguyên tắc, nhiệm vụ của Luật hình sự, phần các tội phạm nêu mô hình cụ thể của tội phạm và các mức độ và các loại hình phạt đối với mỗi tội phạm. Phần chung và phần các tội phạm trong BLHS có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong suốt quá trình ĐTD và QĐHP. Để áp dụng phần các tội phạm phải dựa trên các luận điểm và các nguyên tắc được quy định ở phần chung của BLHS và ngược lại bản thân các QPPL ở phần chung lại không có ý nghĩa nếu thiếu

QPPL ở phần các tội phạm. Cho nên, các dấu hiệu trong mỗi CTTP được quy định ở cả phần chung và các phần tội phạm cụ thể.

Các QPPL thuộc phần chung của BLHS để ĐTD đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy có thể kể đến như: Những quy phạm quy định về chế định như đồng phạm, phòng vệ chính đáng, các giai đoạn tội phạm, lỗi; những quy phạm quy định khái niệm như khái niệm tội phạm quy định tại Điều 8 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017); những nguyên tắc như Điều 3 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về nguyên tắc xử lý; những điều kiện như điều kiện áp dụng các loại hình phạt. Các QPPL phần các tội phạm cụ thể được sử dụng để ĐTD đối với tội tàng trữ chất ma túy là những quy phạm đã được quy định trong BLHS.

1.1.4. Lý luận quyết định hình phạt tội tàng trữ trái phép chất ma túy

1.1.4.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của quyết định hình phạt tội tàng trữ trái phép chất ma túy

* Khái niệm quyết định hình phạt tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Điều 30 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) thì hình phạt được hiểu là “biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước” nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự và do Toà án quyết định.

QĐHP là một trong những khái niệm cơ bản quan trọng của Luật hình sự Việt Nam, đây là một trong những giai đoạn cơ bản, quan trọng của quá trình áp dụng PLHS. Điều đó thể hiện ở chỗ Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền QĐHP. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế được TAND, nhân danh Nhà nước quyết định áp dụng đối với người phạm tội; không một cơ quan Nhà nước nào khác ngoài TAND có quyền QĐHP. Tòa án căn cứ vào BLHS tuyên bố QĐHP đối với người phạm tội, là thể hiện sự lên án của Nhà nước đối với họ về việc thực hiện tội phạm, là sự trừng trị của người phạm tội. QĐHP là giai đoạn được Tòa án thực hiện ngay sau việc định tội, định khung hình phạt.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.

Hiện nay pháp luật hình sự Việt Nam chưa có một văn bản chính thức cụ thể để định nghĩa về khái niệm QĐHP, nên khái niệm này chỉ được nghiên cứu dưới độ là một khái niệm khoa học luật hình sự mà chưa được quy định trong hệ thống văn

bản pháp lý hình sự có tính chất chính thống. Theo PGS.TS. Lê Văn Đệ thì: "Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội cụ thể" [16, tr.161]. Dưới góc độ của luật tố tụng hình sự, TS. Chu Thị Trang Vân đưa ra khái niệm như sau: "Quyết định hình phạt là một giai đoạn rất quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân, là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể được quy định trong luật hình sự tương ứng với cấu thành tội phạm cụ thể để áp dụng với người phạm tội, thể hiện trong bản án buộc tội" [51, tr.55]. Vì vậy, khái niệm quyết định hình phạt trên có thể được nghiên cứu từ hai góc độ khác nhau, từ góc độ luật hình sự và từ góc độ luật tố tụng hình sự. Từ góc độ luật hình sự có thể định nghĩa QĐHP như sau:

Tội tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn quận 7 thành phố Hồ Chí Minh - 4

Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt (đối với loại hình phạt có các mức độ khác nhau) trong phạm vi luật định để áp dụng đối với chủ thể chịu TNHS.

QĐHP đối với chủ thể chịu TNHS là sự lựa chọn một trong những hình phạt chính và xác định mức hình phạt đối với loại hình phạt có mức độ khác nhau trong khung hình phạt được quy định. Trong khi đó, nếu chế tài được quy định chỉ có một loại hình phạt chính và có các mức độ khác nhau thì QĐHP trong trường hợp này là xác định mức hình phạt trong phạm vi khung hình phạt được quy định.

QĐHP bổ sung có nội dung giống như hình phạt chính thì đó là việc vận dụng loại hình phạt bổ sung có thể là một hoặc một số loại nếu luật quy định cho phép áp dụng nhiều loại hình phạt bổ sung và xác định mức hình phạt trong khung quy định để áp dụng cùng với hình phạt chính.

Do vậy, QĐHP bao gồm QĐHP chính và QĐHP bổ sung. QĐHP theo nghĩa này được coi là theo nghĩa hẹp.

QĐHP cũng có thể được hiểu theo các nghĩa rộng khác nhau như: QĐHP là QĐHP chính, QĐHP bổ sung và QĐHP tư pháp.

Khái niệm QĐHP được hiểu theo nhiều nghĩa, tuy nhiên QĐHP theo nghĩa hẹp vẫn được nhiều tác giả ghi nhận trong công trình nghiên cứu trong các sách, báo pháp lý.

Tóm lại trên cơ sở đó, có thể đưa ra khái niệm về quyết định hình phạt đối với tội Tàng trữ trái phép chất ma túy như sau: “ Quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy là sự lựa chọn hình phạt cụ thể trong phạm vi các quy định của Bộ luật Hình sự để áp dụng đối với người phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy”

* Đặc điểm của quyết định hình phạt tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Đây là một giai đoạn ADPL hình sự, quyết định hình phạt có đầy đủ các dấu hiệu của ADPL cũng như ADPL hình sự; đồng thời, quyết định hình phạt cũng có những đặc điểm riêng biệt

Thứ nhất, đặc điểm về chủ thể quyết định hình phạt

Dựa vào các quy định của pháp luật như Điều 31 Hiến pháp năm 2013, Điều 13 BLTTHS 2015, Điều 30 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), thì Tòa án là cơ quan có thẩm quyền tuyên bố một người có tội tàng trữ trái phép chất ma túy bằng một bản án kết tội. Và hình phạt chỉ được áp dụng đối với người phạm tội và bị kết tội bởi Tòa án. Vì vậy, Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền QĐHP hay không QĐHP (miễn hình phạt) đối với người bị kết tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngoài Tòa án, không có cơ quan, cá nhân nào có quyền quyết định TNHS cũng như hình phạt đối với cá nhân phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Thứ hai, đặc điểm về khả năng lựa chọn, tùy nghi

QĐHP tội tàng trữ trái phép chất ma túy là hoạt động ADPL mang tính tùy nghi và lựa chọn rất cao. Trong quá trình quyết định hình phạt, Tòa án có thể:

- Áp dụng hay không áp dụng một biện pháp TNHS nào đó đối với người bị kết tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

- Lựa chọn một loại hình phạt chính, các hình phạt bổ sung được quy định trong chế tài QPPL quy định về tội mà bị cáo bị kết tội. Ví dụ: Tòa án có thể lựa chọn hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân, phạt bổ sung đối với người có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy theo Điều 249 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

- Lựa chọn một mức hình phạt cụ thể để áp dụng đối với người bị kết tội trong phạm vi khung hình phạt được quy định trong chế tài cụ thể. Ví dụ: Tòa án có thể lựa chọn một mức hình phạt tù có thời hạn cụ thể trong khoản từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù

chung thân để áp dụng đối với người phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo khoản 4 Điều 249 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

Thứ ba, đặc điểm trong trình tự, thủ tục quyết định hình phạt

QĐHP được thực hiện sau khi định tội, tức là Tòa án đã xác định được người bị kết tội phạm tội gì, tội đó có được quy định tại điều, khoản nào của BLHS.

Nếu như nội dung định tội, nội dung QĐHP được thực hiện đồng thời trong hoạt động định tội danh hoặc QĐHP, thì các giai đoạn định tội và QĐHP phải được phân định rạch ròi. QĐHP được tiến hành sau khi việc định tội kết thúc và có kết quả kết tội. Chỉ sau khi việc định tội có kết quả, xác định được điều, khoản BLHS cần áp dụng, thì Thẩm phán, Hội thẩm mới biết được chế tài hình sự có thể áp dụng đối với người phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Cũng do khả năng lựa chọn, tùy nghi đa dạng, phong phú, cho nên BLHS quy định rất chặt chẽ các điều kiện quyết định hình phạt. Phán quyết mang tính lựa chọn, tùy nghi đó phải được quyết định dựa trên cơ sở quán triệt đầy đủ, đúng đắn, toàn diện triệt để các điều kiện ADPL đó.

Thực tiễn cho thấy, có nhiều trường hợp, Tòa án thực hiện quy trình ngược lại nên dẫn đến sai lầm trong quyết định hình phạt. Ví dụ: Vì muốn cho bị cáo được hưởng án treo, nên phải kết tội bị cáo về một tội nào đó mà hình phạt quy định có mức dưới 03 năm cho đủ điều kiện luật định khi cho hưởng án treo. Việc làm như vậy là trái với trình tự ADPL hình sự nói chung, quyết định hình phạt nói riêng. [17]

* Ý nghĩa của việc quyết định hình phạt tội tàng trữ trái phép chất ma túy

- Ý nghĩa chính trị - xã hội

QĐHP có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính trị - xã hội. QĐHP đúng sẽ tạo ra sự đồng thuận xã hội trong việc đánh giá tội phạm, đánh giá chính sách hình sự của Nhà nước ta; nhận được sự đồng tình của dư luận xã hội.

QĐHP đúng là bảo đảm quan trọng cho việc bảo vệ lẽ phải, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người; bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong lĩnh vực hình sự; bảo vệ quyền và lợi ích Nhà nước.

QĐHP đúng làm tăng uy tín của Cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính là Tòa án, là cơ quan thực hiện quyền tư pháp.

QĐHP đúng đắn sẽ góp phần tăng cường trật tự pháp luật và kỉ cương xã hội, bảo vệ công bằng xã hội, tăng cường pháp chế.

- Ý nghĩa pháp lý

QĐHP đúng thể hiện sự hợp lý, đúng đắn của các văn bản pháp luật hình sự. Đồng thời qua hoạt động QĐHP, các cơ quan có thẩm quyền qua đó cũng phát hiện những vướng mắc, bất cập của các quy định pháp luật hình sự để qua đó có những biện pháp bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trên thực tế; ban hành các văn bản hướng dẫn cũng như án lệ về các vụ án hình sự có liên quan; sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Bộ luật Hình sự.

Ngoài ra, QĐHP còn thể hiện tính hiệu quả của trình tự, thủ tục tố tụng quy định trong áp dụng PLHS nói chung, QĐHP nói riêng. Hoạt động QĐHP là cơ sở thực tiễn để kiểm nghiệm trên thực tế các quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên QĐHP nhằm tổng kết, rút kinh nghiệm và hoàn thiện pháp luật tốt tụng hình sự trong xây dựng một hệ thống tư pháp hình sự dân chủ, hiệu quả, vì công lý, vì con người.

- Ý nghĩa giáo dục phòng ngừa

Khi nào hình phạt được quyết định một cách công bằng và chính xác thì mục đích của hình phạt mới và được phát huy tối đa, từ đó có tác dụng giáo dục cải tạo người phạm tội, phòng ngừa phạm tội mới và mang tính giáo dục.

QĐHP đúng đắn sẽ tạo được sự tin tưởng của các cá nhân, tổ chức trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, sự đồng thuận của toàn xã hội; làm cho toàn toàn xã hội có động lực tham gia tích cực vào công cuộc phòng chống tội phạm ở nước ta hiện nay.

Tóm lại: QĐHP nói chung và QĐHP đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy nói riêng có vai trò hết sức quan trọng về mặt chính trị - xã hội đối với công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời, QĐHP công bằng, đúng pháp luật và hợp lý sẽ là điều kiện để đạt mục đích của hình phạt (giáo dục, cải tạo, phòng ngừa chung và riêng). Nếu như hình phạt quá nặng sẽ làm cho tâm lý người bị kết án sẽ không cảm thấy không công bằng, không thuyết phục , không hợp lý, dẫn đến thái độ thiếu tích cực, lúc nào cũng không tin tưởng vào pháp luật, không tích cực lao động cải tạo để sau này trở thành người có ích cho xã hội để tái hòa nhập cộng

đồng. Hình phạt có đạt mục đích hay không và đến một mức độ nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: ý thức pháp luật, xây dựng PLHS, chấp hành hình phạt, … cho nên yếu tố QĐHP giữ vai trò quan trọng vì chỉ vận dụng đúng đắn và dựa trên cơ sở nhận thức pháp luật của từng trường hợp phạm tội cụ thể thì Toà án mới có thể đưa ra được một bản án có hình phạt có hiệu quả và đúng đắn.

1.1.4.2. Các nguyên tắc và các căn cứ quyết định hình phạt tội tàng trữ trái phép chất ma túy

* Các nguyên tắc quyết định hình phạt tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Các nguyên tắc QĐHP đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy là một trong những vấn đề quan trọng của chế định QĐHP, bởi vì QĐHP đúng pháp luật, hợp lý và công bằng hay không còn tùy thuộc rất nhiều vào việc áp dụng các nguyên tắc hay nhận thức đó trong thực tiễn xét xử. QĐHP đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy cần dựa vào các nguyên tắc sau:

Thứ nhất, Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa được thể hiện khi QĐHP là ở chỗ khi QĐHP đối với người phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy, Tòa án phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của BLHS về tội này. Đây được xem là một trong những nguyên tắc rất quan trọng, phải tuân thủ nghiêm chỉnh nguyên tắc này trước khi áp dụng các nguyên tắc khác của chế định QĐHP vào thực tiễn xét xử.

Thứ hai, Nguyên tắc nhân đạo. Nguyên tắc nhân đạo của việc QĐHP tội tàng trữ trái phép chất ma túy thể hiện tập trung nhất ở chỗ khi QĐHP, Tòa án phải cân nhắc lợi ít của xã hội, của Nhà nước và của người phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy trong một tổng thể thống nhất biện chứng, hài hòa và hợp lý. Nhân đạo XHCN đòi hỏi phải có thái độ đúng đắn cả đối với lợi ích của Nhà nước và toàn xã hội, lẫn đối với lợi ích của người phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Bởi lẽ, nếu khi QĐHP mà quá đề cao đến lợi ích của Nhà nước, của xã hội, không nói đến nhân đạo mà hạ thấp, xem thường lợi ích của người phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy hoặc ngược lại.

Thứ ba, Nguyên tắc cá thể hóa hình phạt. Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc cá thể hóa quyết định hình phạt tội tàng trữ trái phép chất ma túy thể hiện ở chỗ: Tòa

án phải căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự và ý thức pháp luật, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS người phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy trong từng vụ án, để áp dụng đối với bị cáo loại và mức hình phạt cụ thể, đảm bảo cho việc đạt được các mục đích của hình phạt.

Thứ tư, Nguyên tắc công bằng. Tư tưởng cơ bản của nguyên tắc công bằng xã hội của việc quyết định hình phạt tội tàng trữ trái phép chất ma túy thể hiện ở chỗ loại và mức hình phạt do Tòa án tuyên phải tương xứng với tội tàng trữ trái phép chất ma túy và nhân thân người phạm tội. Nguyên tắc công bằng còn đòi hỏi hình phạt được tuyên cần phải có đủ sức thuyết phục mọi người ở tính công bằng, tính đúng đắn của pháp luật và chính sách xét xử của Nhà nước ta, phải phản ánh một cách đúng đắn ý thức pháp luật và đạo đức xã hội dư luận xã hội của chúng ta.

* Các căn cứ quyết định hình phạt tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Căn cứ QĐHP là những đòi hỏi cơ bản có tính nguyên tắc BLHS quy định hoặc do giải thích pháp luật mà có, buộc Tòa án phải tuân theo khi QĐHP đối với người thực hiện hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Theo quy định tại điều 50 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), căn cứ quyết định hình phạt đối với người phạm tội như sau: “1. Khi quyết định hình phạt, Toà án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”. Theo các nội dung đã phân tích, căn cứ quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy bao gồm:

Thứ nhất, căn cứ vào các quy định của Bộ luật Hình sự.

Khi QĐHP, Tòa án căn cứ vào các quy định của Phần chung và Phần các tội phạm quy định về khung hình phạt chính cũng như hình phạt bổ sung của tội tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 249 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).

Thứ hai, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội

Xem tất cả 99 trang.

Ngày đăng: 25/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí