chấp dẫn đến nóng giận, mất sự bình tĩnh và kiểm soát cảm xúc nên dân tới thực hiện hành vi phạm tội.
Trên cơ sở nghiên cứu các vụ án do TAND tỉnh Đồng Nai xét xử về tội hủy hoại tài sản tác giả thấy rằng, đa số các vụ án hủy hoại tài sản được thực hiện một cách công khai, có nhiều người chứng kiến, giữa người thực hiện tội phạm với nạn nhân có mối quan hệ thân thích, hàng xóm, láng giềng hoặc có sự quen biết nhau từ trước. Trước tình hình tội phạm về xâm phạm sở hữu diễn biến phức tạp trong thời gian qua, cần phải có sự phối hợp đồng bộ của các cấp các ngành và mọi công dân tích cực tham gia phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
2.2.2. Kết quả quyết định hình phạt đối với tội hủy hoại tài sản trong 05 năm (2016 – 2020)
Lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình phạt cụ thể trong phạm vi chế tài để áp dụng đối với người phạm tội do Tòa án thực hiện trong quá trình xét xử vụ án hình sự là hoạt động quyết định hình phạt. Quyết định hình phạt trong tố tụng hình sự, là khâu lựa chọn loại hình phạt, mức hình phạt quy định trong chế tài hình sự quy định trong điều luật để áp dụng đối với người phạm tội, là hậu quả pháp lý mà chủ thể phạm tội phải gánh chịu trước Nhà nước khi chủ thể đó vi phạm quy định của pháp luật [27, tr.292-293].
Các vụ hủy hoại tài sản đã bị phát hiện và xử lý từ năm 2016 đến năm 2020 theo Điều 143 BLHS năm 1999, phần lớn các khoản 2, 3 Điều 143 BLHS năm 1999. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian giao thời giữa BLHS năm 2015 với Luật sửa đổi, bổ sung vào năm 2017 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2018, TAND tỉnh Đồng Nai đã thụ lý, giải quyết có 17 vụ án giao thời giữa BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015 được Tòa án áp dụng theo Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội, Công văn 276/ TANDTC-PC ngày 13/9/2016 và Công văn số 256/TANDTC-PC ngày 31/7/2017 để quyết định hình phạt có lợi cho bị cáo; có 29/145 vụ bị kháng
cáo, kháng nghị. Trong đó, có 12 vụ kháng cáo, 05 vụ kháng nghị được Tòa án chấp nhận.
Bảng 2.2. Tội hủy hoại tài sản được xét xử theo các khoản của Điều 143 BLHS năm 1999 từ năm 2016 đến năm 2017 của tỉnh Đồng Nai
Số vụ xét xử | Khoản 1 Điều 143 BLHS 1999 | Khoản 2 Điều 143 BLHS 1999 | Khoản 3 Điều 143 BLHS 1999 | Khoản 4 Điều 143 BLHS 1999 | |
2016 | 31 | 6 | 14 | 11 | 0 |
2017 | 15 | 4 | 7 | 4 | 0 |
Có thể bạn quan tâm!
- Ý Nghĩa, Mục Đích Của Quy Định Tội Hủy Hoại Tài Sản
- Tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai - 4
- Hình Phạt Và Biện Pháp Tư Pháp Áp Dụng Đối Với Người Phạm Tội Hủy Hoại Tài Sản
- Tội hủy hoại tài sản từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai - 7
- Yêu Cầu Áp Dụng Các Quy Định Của Pháp Luật Hình Sự Về Tội Hủy Hoại Tài Sản
- Giải Pháp Đảm Bảo Áp Dụng Các Quy Định Của Pháp Luật Hình Sự Về Tội Hủy Hoại Tài Sản
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
Nguồn: Tòa án nhân dân Tỉnh Đồng Nai
Trên cơ sở số liệu các hình phạt được áp dụng cho người phạm tội hủy hoại tài sản ở bảng 2.2, nhận thấy tỷ lệ hình phạt áp dụng theo mức khung hình phạt của Điều 143 BLHS năm 1999 của khoản 2 và khoản 3 là chủ yếu (78,2%); tỷ lệ hình phạt áp dụng theo khoản 1 (21,8 %), còn khoản 4 không áp dụng trường hợp nào (0%).
Bảng 2.3. Tội hủy hoại tài sản được xét xử theo các khoản của Điều 178 BLHS năm 2015 từ năm 2018 đến năm 2020 của tỉnh Đồng Nai
Số vụ xét xử | Khoản 1 Điều 178 BLHS 2015 | Khoản 2 Điều 178 BLHS 2015 | Khoản 3 Điều 178 BLHS 2015 | Khoản 4 Điều 178 BLHS 2015 | |
2018 | 11 | 6 | 3 | 2 | 0 |
2019 | 14 | 10 | 2 | 2 | 0 |
2020 | 12 | 9 | 2 | 1 | 0 |
Nguồn: Tòa án nhân dân Tỉnh Đồng Nai
Trên cơ sở số liệu các hình phạt được áp dụng cho người phạm tội hủy hoại tài sản ở bảng 2.3, nhận thấy tỷ lệ hình phạt áp dụng theo mức khung
hình phạt của Điều 178 BLHS năm 2015 của khoản 1 là chủ yếu (67,6%); tỷ lệ hình phạt áp dụng theo khoản 2 và 3 chỉ (32,4 %), còn khoản 4 không áp dụng trường hợp nào (0%).
Qua số liệu phân tích ở hai bảng 2.2 và 2.3 nhận thấy tỷ lệ hình phạt áp dụng theo mức khung hình phạt của các điều luật ở BLHS năm 1999 có sự khác biệt với BLHS năm 2015. Ở BLHS năm 1999 thì áp dụng ở khoản 2, 3 nhiều hơn khoản 1, còn ở BLHS năm 2015 thì áp dụng khoản 1 nhiều hơn khoản 2, 3. Hầu hết các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội hủy hoại tài sản chỉ vì nguyên nhân xuất phát từ những mâu thuẩn nhỏ, tranh chấp đất đai,… trong đời sống dẫn đến hành vi phạm tội gây thiệt hại đến tài sản của người khác. Như vậy, thực tiễn việc áp dụng hình phạt cho thấy số bị cáo phạm tội hủy hoại tài sản của trên địa bàn tỉnh Đồng Nai là ở mức khung hình phạt theo khoản 1 Điều 178 BLHS là nhiều nhất, khoản 4 BLHS năm 2015 thực tế không có áp dụng.
BLHS năm 2015, ngoài quy định hình phạt chính là hình phạt tù có thời hạn và hình phạt cải tạo không giam giữ như BLHS năm 1999 quy định, thì các nhà làm luật đã bổ sung thêm hình phạt tiền là hình phạt chính tại khoản 1 Điều 178 BLHS năm 2015. So với BLHS năm 1999 chỉ quy định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung, BLHS năm 2015 quy định ngoài áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung thì còn áp dụng là hình phạt chính. Việc quy định hình phạt tiền là hình phạt chính đối với các tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội hủy hoại tài sản nói riêng có ý nghĩa quan trọng là một bước cụ thể hóa chủ trương mở rộng áp dụng hình phạt không tước tự do nói chung và hình phạt tiền nói riêng.
Quy định tại khoản 2 Điều 178 BLHS năm 2015 về hình phạt không có gì thay đổi so với quy định tại khoản 2 Điều 143 BLHS năm 1999. Nhưng tại khoản 3, khoản 4 Điều 178 BLHS năm 2015 lại có những thay đổi đáng kể: về mức hình phạt “từ 05 năm đến 10 năm” trong khi điều luật cũ quy định
mức hình phạt cao hơn: “từ 07 năm đến 15 năm” tại khoản 3; về loại hình phạt luật mới bỏ hình phạt “tù chung thân”, quy định hình phạt tù tối đa 20 năm tại khoản 4 Điều 178 BLHS 2015.
Nhìn chung, TAND các cấp của tỉnh Đồng Nai khi xét xử về tội hủy hoại tài sản, các bị cáo bị xét xử và bị áp dụng hình phạt. Về cơ bản, căn cứ vào các tình tiết của từng vụ án cụ thể, tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội Tòa án cơ quan duy nhất đại diện cho Nhà nước thực hiện chức năng xét xử sẽ áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, đảm bảo đúng người, đúng tội.
Bảng 2.4. Hình phạt áp dụng cho Tội hủy hoại tài sản (Điều 143 BLHS năm 1999)
Hình phạt chính | Hình phạt bổ sung | |||
Cải tạo không giam giữ | Tù có thời hạn | Phạt tiền | Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định | |
2016 | 5 | 15 | 1 | 0 |
2017 | 2 | 7 | 2 | 0 |
Nguồn: Tòa án nhân dân Tỉnh Đồng Nai
Qua số liệu thống kê được trình bày ở bảng 2.4 cho thấy, số liệu thống kê việc áp dụng hình phạt đối với các bị cáo của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã đưa ra xét xử thì hình phạt chính áp dụng là hình phạt tù có thời hạn áp dụng nhiều nhất (22 bị cáo), hình phạt cải tạo không giam giữ (7 bị cáo); hình phạt bổ sung chủ yếu áp dụng hình phạt tiền (3 bị cáo); hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định không có trường hợp nào bị áp dụng. Như vậy tỷ lệ hình phạt tước tự do được áp dụng chủ yếu.
Bảng 2.5. Hình phạt áp dụng cho Tội hủy hoại tài sản (Điều 178 BLHS năm 2015)
Hình phạt chính | Hình phạt bổ sung | ||||
Cải tạo không giam giữ | Phạt tiền | Tù có thời hạn | Phạt tiền | Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định | |
2018 | 3 | 9 | 7 | 2 | 0 |
2019 | 5 | 11 | 9 | 3 | 0 |
2020 | 2 | 8 | 6 | 1 | 0 |
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai
Qua số liệu thống kê được trình bày ở bảng 2.5 cho thấy, số liệu thống kê việc áp dụng hình phạt đối với các bị cáo của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai đã đưa ra xét xử thì hình phạt chính áp dụng là hình phạt tiền áp dụng nhiều nhất (28 bị cáo), hình phạt cải tạo không giam giữ có 10 bị cáo; có 22 bị cáo bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn; hình phạt bổ sung chủ yếu áp dụng hình phạt tiền 6 bị cáo; cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định không có trường hợp nào bị áp dụng. Như vậy tỷ lệ hình phạt không tước tự do được áp dụng chủ yếu.
Qua số liệu thống kê phân tích cho thấy tỷ lệ hình phạt chính áp dụng cho các bị cáo có sự thay đổi qua các giai đoạn. Nếu giai đoạn áp dụng theo BLHS năm 1999 thì xu hướng áp dụng hình phạt tước tự do chiếm tương đối. Nhưng sang giai đoạn theo BLHS năm 2015 thì thay đổi xu hướng áp dụng các hình phạt không tước tự do được áp dụng ngày càng nhiều. Điều này cho thấy sự thay đổi nhận thức trong việc áp dụng chính sách hình sự hướng thiện. BLHS năm 2015 đã bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính trong một số tội phạm trong đó có tội hủy hoại tài sản. Thực hiện chủ trương mở rộng áp dụng hình phạt tiền. Các hình phạt bổ sung được áp dụng nhìn chung không đáng kể,
thậm chí hình phạt bổ sung “cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định” không được áp dụng trên thực tế.
2.3. Những hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong việc áp dụng quy định về tội hủy hoại tài sản
2.3.1. Những hạn chế trong việc áp dụng qui định về tội hủy hoại tài sản
Trong thời gian từ năm 2016 đến năm 2020 tại tỉnh Đồng Nai đã xảy ra 83 vụ hủy hoại tài sản bị xử lý hình sự, với 92 bị cáo. Tác giả lấy số liệu từ năm 2016 đến năm 2020, các vụ án có liên quan tội hủy hoại tài sản từ ngày 01.01.2018 đến nay (áp dụng các quy định của BLHS năm 2015). Tuy nhiên, BLHS năm 2015 mới có hiệu lực áp dụng, thực tiễn áp dụng chưa nhiều nên luận văn nghiên cứu thêm một số vụ án liên quan từ năm 2016 đến năm 2017 (áp dụng các quy định của BLHS năm 1999).
Thứ nhất, về vấn đề xác định tội danh
- Định tội danh theo dấu hiệu đối tượng tác động.
Thực tiễn tỉnh Đồng Nai, cũng có những trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng không thống nhất trong cách đánh giá về đối tượng tác động của tội phạm dẫn đến thay đổi tính chất của hành vi phạm tội, từ việc xác định đối tượng bị xâm hại là công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia nhưng sau đó lại thay đổi, cho rằng đối tượng đó không phải là công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia đã làm cho việc xác định tội danh bị thay đổi, vụ án bị đình chỉ do chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Trường hợp này cũng liên quan đến việc phá hủy công trình của ngành điện nhưng được thay đổi Quyết định khởi tố bị can từ tội “Phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia” (Điều 231 BLHS năm 1999) sang tội “Hủy hoại tài sản” (Điều 143 BLHS năm 1999) và ra Quyết định đình chỉ điều tra bị can vì giá trị tài sản bị thiệt hại chưa đủ truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 143 BLHS năm 1999.
Đơn cử như ví dụ sau: Để có tiền tiêu xài, sáng ngày 23/8/2016, Nguyễn Hồng Sơn rủ Nguyễn Hồng Phú đi tìm dây điện để cắt trộm, Phú đồng ý. Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, khi chạy vào đường Bùi Văn Hòa thuộc phường Long Bình, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thì phát hiện có đường dây điện chiếu sáng công cộng, Sơn dừng xe giữa hai trụ điện ký hiệu T.TTH/86 (20T1) và GX23/4A (GX23/79), nói Phú đứng giữ xe và cảnh giới còn Sơn leo lên cành cây giữa hai trụ điện dùng kìm cắt đứt dây điện chiếu sáng loại 04 sợi xoắn 04x11mm làm dây điện rơi xuống đất. Sau đó, Sơn đến trụ điện T.TTH/86 (20T1) với tay cắt đứt đầu dây còn lại. Phú kéo và cuộn dây điện bỏ vào bao và giấu vào bụi cây. Sơn tiếp tục đến trụ điện có ký hiệu GX23/4A (GX23/79) với tay cắt đứt đoạn dây điện thứ hai. Khi Sơn định cuốn dây điện thì bị Công an xã Lê Minh Xuân trên đường đi tuần tra phát hiện và bắt giữ.
Cơ quan Điều tra đã ra Quyết định khởi tố vụ án hình sự, Quyết định khởi tố bị can đối với Nguyễn Hoàng Sơn về tội “Phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia” vì cho rằng đường dây tải điện là công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia.
Tuy nhiên, Sở Giao thông Vận tải tỉnh Đồng Nai tại Công văn số 783/SGTVT-GT ngày 03/9/2016 đã xác định hệ thống đèn chiếu sáng công cộng bị Nguyễn Hoàng Sơn và Nguyễn Hoàng Phú cắt trộm chưa được đăng ký là Công trình quan trọng về an ninh quốc gia. Tại Bản kết luận định giá tài sản số 3340/SCT-HĐĐGTS-BVG ngày 13/4/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự cấp tỉnh – Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai xác định giá trị tài sản bị thiệt hại trong vụ án là 1.296.000 đồng.
Do đó, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở để xác định hành vi của Nguyễn Hoàng Sơn và Nguyễn Hoàng Phú phạm vào tội “Hủy hoại tài sản”, Cơ quan An ninh điều tra đã ra Quyết định thay đổi Quyết định khởi tố vụ án hình sự, Quyết định thay đổi Quyết định
khởi tố bị can đối với Nguyễn Hoàng Sơn từ tội “Phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia” sang tội “Hủy hoại tài sản” và ra Quyết định đình chỉ điều tra bị can đối với Nguyễn Hoàng Phú do khi phạm tội Phú chưa đủ 16 tuổi và tài sản bị thiệt hại là 1.296.000 đồng nên Phú không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội "Hủy hoại tài sản".
Trong vụ án này, do chưa có danh mục công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia, cũng như chưa có những tiêu chí cụ thể để xác định chính xác một công trình, cơ sở, phương tiện có phải là công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia hay không đã làm cho các cơ quan tiến hành tố tụng có những quan điểm khác nhau khi xác định tội danh theo đối tượng tác động của tội phạm, đã khởi tố bị can về hành vi phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia rồi phải thay đổi và đình chỉ vụ án vì sau đó các cơ quan tiến hành tố tụng xác định đối tượng tác động của tội phạm không phải công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về ANQG mà chỉ là tài sản thông thường.
Trong thực tiễn xét xử, việc xác định tài sản thông thường với các phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia đôi khi có nhiều quan điểm khác nhau, ảnh hưởng đến việc định tội danh. Do chưa có căn cứ xác định đối tượng tác động là công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia nên cơ quan tiến hành tố tụng đã không thể truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) đối với người thực hiện hành vi gây thiệt hại hoặc chuyển sang truy cứu TNHS về các tội phạm khác như tội trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS năm 2015) hoặc tội hủy hoại tài sản (Điều 178 BLHS năm 2015),…khi mức độ thiệt hại hoặc các dấu hiệu cấu thành tội phạm có đầy đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự về những tội phạm này. Đồng thời, cũng có những trường hợp đánh giá chưa đúng về tính chất của công trình, cơ sở, phương tiện bị xâm phạm, cho rằng nó không phải là công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia mặc dù theo Nghị định số 126/2008/NĐ-CP thì những công