Khi chín, quả nho có thể ăn tươi hoặc được sấy khô để làm nho khô, cũng như được dùng để sản xuất các loại rượu vang, thạch nho, nước quả, dầu hạt nho.
Đối với vùng có khí hậu ôn đới, cây nho chỉ cho thu hoạch mỗi năm một vụ, trong khi ở những vùng có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới cây nho có khả năng sinh trưởng liên tục và cho thu hoạch 2-3 vụ/năm.
Diện tích trồng cây nho trên thế giới khoảng 10 triệu ha. Châu Âu là khu vực có diện tích trồng nho lớn nhất thế giới. Những nước trồng nhiều nho là Bồ Đào Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp, Italia, Liên bang Nga và Mỹ. Năng suất nho trên thế giới dao động khá lớn từ 5,2 - 27,0 tấn/ha. Những nước có năng suất nho khá cao là Ấn Độ, Hà Lan,..
P P
Theo số liệu của FAO, 75.866 km2 trên thế giới được dùng để trồng nho. Khoảng 71% sản lượng nho để sản xuất rượu vang, 27% để ăn dưới dạng quả tươi và 2% làm nho khô. Có 11 quốc gia sản xuất rượu vang nho hàng đầu thế giới với diện tích trồng nho cho việc sản xuất rượu vang: Tây Ban Nha 11.750
km2 2 2 2
P ,P Pháp 8.640 kmP ,P Italy 8.270 kmP ,P Thổ Nhĩ Kỳ 8.120 kmP ,P Hoa Kỳ 4.150
km2 2 2 2
P P, Iran 2.860 kmP P, Romania 2.480 kmP P, Bồ Đào Nha 2.160 kmP P, Argentina
P P
P P
P P
2.080 km2, Trung Quốc 1.780 km2, Australia 1.642 km2 (Nguồn: FAO).
Nho được trồng tập trung ở những trang trại lớn trên thế giới. Trong khuôn khổ chuyến thăm Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, sáng 21.6.2006, Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết và phu nhân đã tới thăm một gia đình nông dân Mỹ có trang trại trồng nho và sản xuất rượu vang nhãn hiệu BREAUX. Breaux là một trong những trang trại trồng nho và sản xuất rượu vang nổi tiếng ở bang Virginia, cách trung tâm thủ đô Washington khoảng 70 km. Trang trại trải dài trên diện tích rộng 160ha, trong đó có 34ha trồng 15 loại nho khác nhau và tại đây rượu vang được sân xuất theo phong cách truyền thống của gia đình với các trang thiết bị nhập chủ yếu từ châu Âu
Trên khắp thế giới, sự phân bố và phát triển cây nho là sự kết họp của di tryền giống cây trồng qua mùa vụ và khả năng thích nghi của nhiệt độ, ở vùng
khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Những quốc gia phải cùng đóng góp các thông tin về giống và mong muốn ghép giống, lai giống tạo ra những giống nho có giá trị tốt nhằm đem lãi hiệu quả cao. Nhưng nghịch lý, nền tảng của sự di truyền của các giống nho thương mại thì quá giới hạn, là nguyên nhân gây bệnh từ sâu bọ, côn trùng,..cho cây nho đặc biệt là vùng cận nhiệt và nhiệt đới. Dưới đây là ngành trồng nho ở một số quốc gia trên thế giới.
1.3.1.1. Một số quốc gia trồng nho trên thế giới
❖ Ngành trồng nho ở Australia [31, tr 4, 8,14]
Australia là một trong số 10 nước có năng suất nho cao hàng đầu thế giới. Diện tích nho năm 1998 - 1999 là 122.915 ha, sản lượng đạt 1.265.536 tấn, mỗi năm thu hoạch 1 vụ. Trong đó, sản lượng dùng ăn tươi chiếm 5,5%. Lượng nho ăn tươi xuất khẩu khoảng 31.071 tấn/năm.
Nho được trồng ở tất cả các bang của Australia nhưng tập trung phần lớn sản phẩm cung cắp ở vùng ôn đới. Có 3 bang sản xuất lớn nhất ở phía nam là Nam Australia (Riverland), Victoria và New South Wales. Vườn nho được hình thành dựa vào các yếu tố ưu tiên để xác định vùng trồng nho ổn định lâu dài và quản lý thuận lợi là khí hậu, thời tiết, nguồn nước và đất.
Nguồn nước là yếu tố chính để xác định đến việc thiết lập hệ thống vườn nho. Nguồn nước cấp cho vùng trồng nho được xác định khối lượng nước có thể dùng được từ những bể chứa nước hoặc những giếng khoan nước ngầm. Vùng trồng nho ở Australia được đặt ở vị trí mà nguồn nước có thể cung cấp được. Nhiều vườn nho mới phát triển dựa vào nguồn nước bơm từ sông ngòi và suối. Lượng nước mưa liên quan đến mùa trồng nho, làm thay đổi đáng kể mùa vụ khắp đất nước.
Nguồn đất cũng là yếu tố quyết định xác định vị trí vườn nho mà việc cải tạo đất và sự biến đổi tính chất tự nhiên cần nghiên cứu trước khi trồng.
Nho được tiêu thụ phổ biến thông qua các đại lý bán trái cây kí nhận bán hàng tại các chợ trung tâm ở các trung tâm thành phố để hưởng hoa hồng.
Hiện nay, sản lượng trái cầy gia tăng nên được bán trực tiếp ở các chuỗi siêu thị bán lẻ với giá cả thỏa thuận. Nho tươi không xuất khẩu vào lúc trái mùa vì giá thành cao ở thị trường nội địa. Nho tươi xuất khẩu chính từ Sunraysia và SwanValley. Năm 1998 - 1999 nho tươi xuất khẩu đạt mức kỉ lục với 31.017 tấn giá trị 69,1 triệu USD. Thị trường xuất khẩu chính là Hồng Kông và Singapore ước khoảng 25% -40% giá trị hơn 44,3 triệu USD. Những giống chính xuất khẩu là Thompson Seedless, Red Globe, Flame Seedless và Menindee Seedless.
Nho tươi cho phép nhập khẩu chỉ từ New Zealand dưới 5 tấn mỗi năm. Ngày 14/1/2000. Tổ chức kiểm định chất lượng ở Australia cho phép nho tươi nhập khẩu từ Califormia từ tháng 7 hoặc tháng 8 cho đến tháng 12.
Doanh thu nho rượu xuất khẩu ở Australia gia tăng từ 21,3 triệu lít năm 1986-1987 lên 215,5 triệu lít năm 1998-1999. Thị trường xuất chính là châu Âu, Bắc Mỹ và New Zealand. Nho rượu cũng được xuất sang các nước châu Á tăng trong những năm gần đây và khu vực này trở thành mục tiêu tiềm năng xuất khẩu nho rượu của Australia.
❖ Ngành trồng nho ở Thái Lan [31, tr 70-73,76]
Trước 1960, nho tươi được nhập khẩu từ Hoa Kỳ và Australia đến Thái Lan với giá thành rất cao. Vào thời gian đó, hon một trăm giống nho từ Hoa Kỳ và các nước khác được nghiên cứu trong nước để tìm ra những giống nho có thể thích nghi và phát triển tốt trong nước. Năm 1956, Giáo sư Pavin Punsri và đồng nghiệp của ông tại khoa Làm vườn (trồng hoa, quả và rau), Đại học Kasetsart, Bangkok, đã cố gắng nghiên cứu và giải quyết các vấn đề về việc trồng nho. Ngành trồng nho ở Thái Lan từng bước thành công. Lúc đầu, các vùng sản xuất nho tươi thương mại được xác định ở các vùng đất rộng lớn bằng phẳng thuộc trung tâm các tỉnh Nakhon Pathom, Ratchaburi, Samut Sakhon và Samut
Songkhram, gần Bangkok. Gần đây, ngành trồng nho được mở rộng đến các vùng phía Bắc, Đông Bắc và phía Tây các vùng.
P P
Những đặc điểm về khỉ hậu và đất của các vùng trồng nho: nhiệt độ 25 - 300C, lượng mưa trung bình năm: 1300 - 1450mm; độ ẩm 60 - 90% và độ cao so với mực nước biển là 2-3m. Đất là loại đất sét và thoát nước tốt. Vì thế, cần phải cải thiện hệ thống thoát nước được sử dụng "đào mương đắp luống". Đất có pH khoảng 4-5,5. Bón vôi và phân bón cũng cần thiết để cải tạo đặc tính lý hóa của các loại đất này. Nguồn nước được lấy từ sông ngòi và kênh đào. Ở các vùng phía Bắc và miền Đông Bắc cũng có các yếu tố thuận lợi cho phát triển nho.
Bảng 1.1: Tình hình sản xuất nho tại Thái Lan năm 1998
Diện tích (ha) | Sản lượng (tấn) | Năng suất (tấn/ha) | Diên tích nho tươi (ha) | Diên tích nho rươu (ha) | |
Cả nước | 2.717,9 | 31.677,1 | 15,2 | 2.377,5 | 340,4 |
Vùng phía Băc | 25,9 | 22,5 | - | 19,5 | 6,4 |
Vùng Đông Bắc | 338,2 | 3.897,2 | - | 154,4 | 184,0 |
Trung tâm và vùng phía Tây | 2.353,8 | 27.757,0 | - | 2.203,8 | 150,0 |
Có thể bạn quan tâm!
- Tổ chức lãnh thổ nông - Công nghiệp trồng và chế biến nho ở Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận - 1
- Tổ chức lãnh thổ nông - Công nghiệp trồng và chế biến nho ở Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận - 2
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Và Thực Trạng Trồng Và Chế Biến Nho Ở Các Tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận.
- Tình Hình Tổ Chức Lãnh Thề Trồng Và Chế Biến Nho Ở Việt Nam
- Giá Một Số Loại Nho Ở Thị Trường Tự Do Việt Nam (Tháng 4/2000)
- So Sánh Ưu Nhược Điểm Của Giống Nha Cardinal Và Giống Nho Black Queen Và White Malaga
Xem toàn bộ 166 trang tài liệu này.
Nguồn: Bộ Phát triển Nông nghiệp Thái Lan
Hiện nay, Thái Lan có khoảng 2.717 ha cung cấp 31.677 tấn mỗi năm, năng suất trung bình khoảng 15tấn/ha. Các vùng chính sản xuất nho được tập trung ở vùng đồng bằng trung tâm ở Nakhon Pathom, Ratchaburi, Samut Sakhon, là nơi cung cấp nho tươi chính của cả nước. Các giống nho không hạt Beauty, Ruby (Beauty Seedless, Ruby Seedless) và nho xạ Early (Early Muscat) phát triển tốt, cho sản lượng và chất lượng tốt. Thái Lan vẫn tiếp tục mở rộng ngành trồng nho.
Cây nho ở đồng bằng được trồng theo các luống (rộng khoảng 6m) trong khu vực trồng nơi có mực nước ngầm cao hoặc ngập nước. Các luống trồng xen kẽ với mương rãnh (rộng khoảng 1m và sâu 1m) giúp tưới hoặc tiêu nước. Cây
nho thường được trồng ở giữa các luống, cách 2m hoặc ở hai bên bờ luống trồng, số lượng cây nho trên 1 ha từ 550 – 1.100 cây.
Ở vùng đổi núi nơi có mực nước ngầm cao, người ta phải đào hố để trồng nho. Kích thước hố thường sâu 0,5m, dài 0,5m, rộng 0,5m. Khoảng cách giữa các hố là 1,5 - 2 x 3,5 - 4m với số cây nho trồng 1.250- 1.875/1ha. Phân bón hoặc phân xanh có thể trộn với đất và lấp đầy mỗi hố. Thời gian trồng từ tháng 1 hoặc tháng 2.
Thái Lan có khí hậu nhiệt đới thuận lợi để phát triển nho. Vụ mùa đầu tiên có thể thu hoạch chỉ sau 14-16 tháng sau khi trồng, một năm có thể thu hoạch 2 đến 3 vụ. Thực tế những người trồng nho chặt tỉa các cây nho hai lần trong một năm và có hai vụ, một vào mùa mưa (tháng 5 -10) và một mùa vào mùa khô (tháng 11 đến tháng 4 năm sau). Vụ sau thì tốt hơn vì hàm lượng đường cao hơn, chất lượng hơn, ít bị sâu bệnh. Việc tăng vụ này làm cho cây nho có tuổi thọ ngắn khoảng 7 đến 10 năm.
Với giống nho White Malaga, là giống chủ lực được trồng với mục đích ăn tươi người trồng nho có thể khai thác 2 vụ một năm hoặc 5 vụ trong hai năm, năng suất trung bình 15 - 20 kg/vụ. Giống nho Cardinal, có thể thu hoạch 3 -4 vụ/năm với năng suất trung bình 12-15 kg/vụ.
Ở Thái Lan không có tổ chức nào hay hiệp hội nào đứng ra tiếp thị nho. Việc tiếp thị nho thường từ những người trồng nho qua 1 hoặc 2 bên trung gian để người trung gian chuyển nho ra thị trường bán cho người tiêu thụ. Hầu hết nho tươi tiêu thụ trong nước. Xuất khẩu nho tươi chỉ có sản lượng nhỏ. Giá thành nho tươi phụ thuộc vào chủng loại, chất lượng, mùa vụ và nhu cầu thị trường. Trung bình giá các giống nho cũ tại nơi trồng thấp, như nho White Malaga và Cardinal khoảng 30- 37 bath/kg, trong khi giống nho mới như nho khô không hạt giá khoảng 100- 150 bath/kg. Số lượng và giá trị nho tươi và nho rượu ngày càng tăng từ năm 1993 đến nay.
❖ Ngành trồng nho ở Trung Quốc [31, tr 19-20, 23-24]
Nho (Vitis vinifera L.) được trồng ở Trung Quốc hơn 2000 năm. Tuy nhiên, sản lượng nho trồng với số lượng không đáng kể, đến năm 1998 khoảng 178.000 ha, sản lượng đạt 2.358.200 tấn. Trong đó nho ăn tươi chiếm 80% tổng sản phẩm khoảng 10% nho làm rượu và 10% nho khô.
Hiện nay ngành trồng nho ở Trung Quốc được xếp thứ 15 trong ngành sản xuất cây ăn trái sau táo, cam quýt, lê, chuối,... Diện tích trồng chính được mở rộng về phía Bắc, 5 tỉnh dẫn đầu cung cấp 2/3 tổng lượng nho trong nước năm 1998 là Xingjiang, Hebei, Shangdong, Liaoning và Henan.
Bảng 1.2: Tình hình sản xuất nho tại Trung Quốc năm 1998
Diện tích trồng nho | Sản lượng nho | |||
Nghìn ha | Tỉ lệ % cả nước | Nghìn tấn | Tỉ lệ % cả nước | |
Xingjiang | 32,0 | 18,0 | 555,4 | 23,6 |
Hebei | 31,5 | 17,7 | 404,4 | 17,1 |
Shangdong | 20,9 | 11,7 | 269,0 | 11,4 |
Liaoning | 14,2 | 8,0 | 275,6 | 11,7 |
Henan | 11,3 | 6,3 | 153,0 | 6,5 |
Cả nước | 178,0 | 100 | 2358,2 | 100 |
Nguồn: Thống kê Nông Nghiệp Trung Quốc 1999
Hầu hết trái cây sản xuất ở Trung Quốc được kinh doanh bằng hệ thống tiếp thị trong nước. Việc xuất khẩu trái cây rất nhỏ, trung bình khoảng 600.000 tấn mỗi năm, hoặc 1,2% tổng sản lượng trong nước. Tình hình tiếp thị nho cũng giống như các loại trái cây khác, 650 tấn nho và 1.100 tấn nho khô được xuất khẩu năm 1997. Xuất khẩu nho đứng thứ 6 trong các loại trái cây xuất khẩu ở Trung Quốc, đứng sau táo, cam quýt, lê, chuối và đào. Tuy nhiên, nhập khẩu nhiều hơn xuất, năm 1997, gần 4800 tấn nho được nhập khẩu gấp khoảng 7,4 lần nho xuất. Nho nhập khẩu chủ yếu từ Mỹ và hầu hết nho nhập khẩu là loại nho Red Globe. Với loại nho khô nhập vào Trung Quốc thì ít hơn nho khô xuất, gần 460 tấn nho khô nhập năm 1997 chỉ khoảng 1/2 sản lượng xuất.
1.3.1.2. Tình hình chế biến nho trên thế giới
Nho ngoài mục đích ăn tươi, nho còn là nguồn nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến. Nho được chế biến thành rượu, nho khô, nước ngọt, nho đóng hộp,... Trên thế giới ngành chế biến nho phát triển tương đối sớm nhất là ở các nước Tây Âu, Bắc Âu và Bắc Mỹ.
Nước Pháp là quốc gia nổi tiếng về trồng nho và sản xuất rượu vang. Năm 1992, đất trồng nho ở Pháp khoảng 1.100.000 ha và sản xuất được 60- 70 triệu hectôlit rượu vang. Rượu vang của Pháp chất lượng cao và độc đáo với các nhãn hiệu: Boocđô, Cônhắc, AOC,...[12, tr 71]
Rượu vang của Hoa Kỳ ngày nay đã có thể cạnh tranh được với những thứ rượu nho thượng hảo hạng của nước Pháp. Một trong những vùng trồng nho và cất rượu vang nổi tiếng của nước Mỹ là thung lũng Napa. Napa được biết đến là nhờ nó có tới hơn 175 nhà sản xuất rượu nho để đưa ra thị trường một số những loại vang cabemet, chardonnay, pinot noir, Zinfandel và merlot ngon nhất.
Chế biến rượu nho [10, tr 131-132]
Rượu nho chủ yếu được chế biến ở các nước châu Âu, Bắc Phi, Nam Phi và Nam Mỹ. Những giống nho vùng ôn đới thích hợp cho việc chế biến rượu. Yêu cầu của giống nho làm rượu là phải có hương vị thơm trong thời gian dài, giữ được đến sau khi chế biến, có đủ lượng đường, độ ngọt trên 24%, độ axit 0,5- 0,7% và vitamin 0,57-0,8%. Đối với những giống nho trồng trong điều kiện khí hậu nhiệt đới thường có hàm lượng đường thấp, cần phải thêm 5-8kg đường cho 100kg nước ép để cho ra rượu nhẹ 12%. Trên thế giới, những giống nho White Riesling, Chardonnay, Cabemet Sauvignon, và Muscat Blanc cho ra rượu có chất lượng cao với hương vị tuyệt hảo.
Chế biến nho khô [10, tr 127-129]
Sản phẩm nho chế biến giữ vị trí thứ hai là khô nho, xuất hiện muộn hơn so với ngành chế biến rượu nho.
Chế biến nho khô tập trung chủ yếu ở Bắc Mỹ, Tây Âu và Bắc Phi. Hiện nay sản lượng nho khô trên thế giới khoảng 750.000 tấn trong đó Hoa Kỳ sản xuất chiếm 30%, kế đến là Thổ Nhĩ Kỳ 25%, Hy Lạp 20%, Úc 10%, Iran 5%, Afganixtan 5%, các nước còn lại như Italia, Marốc, Ai Cập,... khoảng 5%.
Để làm nho khô, cần chọn những quả đã chín hoàn toàn, vỏ quả mỏng, nhiều thịt, giữ được nhiều mùi vị, màu sắc khi khô, quả chín đồng đều và dính chắc với cuống để không bị chảy nước trong quá trình chế biến.
* UNho khô tư nhiên
Loại nho này không dính, có màu mận, vỏ dai, giữ nguyên cả lớp phấn trên vỏ quả, khi bảo quản không bị đóng bánh.
UCách làmU: Phơi nho trong khay gỗ (miếng giấy) trong 1-2 tuần. Khi thấy vỏ quả lớp trên đã nhăn nheo thì lật lại cho khô đều, sau đó cuốn giấy lên để có độ ẩm đồng đều. Khi độ ẩm còn từ 13-15% thì xếp vào hộp khoảng 2-3 tuần để cân bằng độ ẩm. Sau đó xông hơi bromua methyl và gói lại sau khi đã phân loại. Trước khi cất trữ cần xông hơi bằng đioxit lưu huỳnh để chống thối.
* UNho khô tao màu vàng
Sau khi làm khô, nho có màu vàng chanh, mềm vừa phải và hơi dính.
P P
P P
UCách làmU: nhúng chùm nho vào NaON (xút ăn da) 0,2-0,5% trong 2-3 giây ở nhiệt độ 90-950C, rồi rửa ngay bằng nước lạnh. Nếu thấy bề mặt quả mỏng đi nhìn thấu bên trong là được. Sau đó đưa nho vào buồng kín xông hơi đioxit lưu huỳnh (khoảng 100-200g/tạ nho) trong 24 giờ, khi quả vàng đều là được. Thổi không khí nóng 60-700C từ 18-50 giờ để quả khô.
* UNhó khô bằng phương pháp xử lý soda và dầu
Phương pháp này, nho có màu nâu đậm, mềm, không dính, có mùi dầu ăn.