Tình Hình Tổ Chức Lãnh Thề Trồng Và Chế Biến Nho Ở Việt Nam‌


0

UCách làmU: nhúng nho vào dung dịch NaCOR3R 3-4%, ở nhiệt độ 40P PC và 0,1% NaOH. Cho thêm vào dung dịch một chút dầu ô liu tạo thành váng mỏng. Xử lý xong, xếp các chùm nho ra khay và phơi nắng cho đến khi khô.

Chế biến nước ngọt [10, tr 130]


Trên thị trường nho thế giới còn có sản phẩm nho đóng hộp và nước ngọt sản xuất từ nho hay có hương vị nho. Tuy nhiên những sản phẩm này còn ít và chưa phổ biến đến người tiêu dùng. Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, nhất là trong công nghệ sinh học, công nghiệp chế biến tạo điều kiện cho ngành chế biến nho phát triển mạnh trong tương lai, góp phần tăng chất lượng và sản lượng nho, đa dạng hóa sản phẩm nho trên thị trường.

P P

Nước ép nho làm thức uống với nhiều vitamin và các chất bổ dưỡng cơ thể. Người ta dùng tay bóp vỡ quả nho hoặc máy trục xoắn ép quả, đun nóng phần thịt quả nát ở nhiệt độ 700C trong vòng 2 phút, sau đó dùng vải muslin lọc. người ta thường trộn lẫn quả nho xanh với nho đỏ với các tỷ lệ khác nhau tùy thuộc giống để có màu sắc đẹp. Nước ép được đóng vào chai hoặc hộp lon, bảo quản nhờ nhiệt hoặc hút chân không ở 35 -400c để làm đậm đặc dung dịch tới 68-700Brix. Nhờ hàm lượng đường cao mà nước nho đựoc bảo quản tốt.

1.3.1.3. Phân loại nho theo công dụng


Nho ăn tươi


Nho được tiêu thụ dưới dạng quả tươi. Các giống có màu sắc bề ngoài quả đẹp, mùi vị hấp dẫn, vận chuyển đi xa ít bị dập nát, thịt quả cứng, vỏ quả dai, cuống quả liên kết chặt với quả và quả giữ được chất lượng tốt sau thu hoạch. Các giống nho ăn tươi chủ yếu Muscat Hamburg, Thompson Seedless, Tokay, Muscat of Alexandra, Black Queen, Redstar, NH.01-48, Ribier, Cardinal,...

Nho khô


Những giống nho trồng để làm khô nho. Những giống này thường có cấu trúc quả mềm, không hạt, hàm lượng đường cao, hương vị dễ chịu và ít bị dính


khi bảo quản sản phẩm. Những giống nho không hạt như Thompson Seedless, Black corinth, Seedless sultana, Red corinth, Muscat of Alexandra,...

Nho rượu


Các giống nho được trồng để sản xuất rượu vang và một số rượu mạnh cao cấp, đắt tiền. Loại nho này chủ yếu trồng ở Châu Âu, Nam Phi, Bắc Phi, Nam Mỹ, Úc và Hoa Kỳ với các giống như White Riesling, Ruby Red, Chardonnay, Cabemet Sanvignon, Tinta Maderia, Chambourcin, NH.02-04 và Muscat Blanc.

Nho làm nước ngọt


Những giống nho có dịch nước ép ngọt để làm đồ uống. Nước quả nho có thể giữ lại được hương vị tự nhiên của nho tươi thông qua việc lọc và bảo quản. Ở Hoa Kỳ dùng giống Concord, các nước Trung Âu dùng giống White Riesling và Chasslas dore, Pháp dùng giống Aramon và Carignan.

Nho đóng hộp


Các giống nho không hạt như Thompson Seedless và Canner thường được dùng đóng hộp chung với loại quả cây khác.

1.3.2. Tình hình tổ chức lãnh thề trồng và chế biến nho ở Việt Nam‌


Ở Việt Nam, cây nho có thể nhìn thấy ở mọi nơi. Đã từ rất lâu, người dân Hà Nội đã trồng nho xung quanh nhà để làm cảnh và che bóng râm. Những cây nho trồng giàn có những quả nhỏ và chùm nhỏ nhưng vị rất chua và giá trị dinh dưỡng thấp. Hiện nay, chỉ ở miền Nam mới có nho trồng để kinh doanh, chất lượng nho chưa lý tưởng nhưng cần thiết như trái cây khác.

Nghề trồng nho đã tồn tại hàng ngàn năm trên một số nơi trên thế giới nhưng ở Việt Nam chỉ mới phát triển trong những năm gần đây. Từ khi nó có giá trị kinh tế cao hơn so với các loại cây trồng khác, diện tích trồng nho ở Việt Nam nhanh chóng tăng lên từ những năm 1990, chỉ có nho tươi là hàng hóa thương mại chính từ trồng nho.


Trong các loại cây thực phẩm có nhiều loại có giá trị cao, đem lại nhiều hiệu quả kinh tế, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội, bổ sung chất khoáng và vitamin có lợi cho con người. Trong đó nho là một loại cây trồng có giá trị kinh tế cao, như ăn tươi, ché biến thành nhiều sản phẩm có giá trị thương mại như rượu vang, cônhắc, nho khô, nước ngọt, nho đóng hộp,... và là một trong những loại quả giàu dinh dưỡng, bổ sung sức khỏe cho người. Cây nho là cây trồng đem lại hiệu quả kinh tế cao cho nhân dân tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận. Cây nho có thể khai thác hết, lá nho dùng làm phân bón, rễ nho dùng làm thuốc nam, trái nho non có thể dùng làm dưa chua. Cây nho là thu nhập chính, là cây góp phần "Xóa đói giảm nghèo, vươn lên làm giàu".

Tại Việt Nam, theo trung tâm khảo cứu Nông nghiệp Ninh Thuận (trước giải phóng), cây nho đã được du nhập vào từ năm 1971 với trên 70 giống có nguồn gốc nhiệt đới và ôn đới từ Thái Lan, Nam Triều Tiên và Hoa Kỳ. Sau năm 1975, do chưa có định hướng phát triển cay nho nên vườn tập đoàn giống nho đã bị chặt phá. Cho đến những năm 1980- 1990 chỉ còn tồn tại 4 giống nho trong vườn cây ăn quả của Trung tâm Nghiên cứu Cây bông Nha Hố (Cardinal, Ribier, Muscat de St.vallier và Alden) và cũng bị phá bỏ cùng với những cây khác vào năm 1985. Những năm sau đó, chỉ còn duy nhất giống nho đỏ Cardinal đang được trồng trọt mang tính thương mại ở tỉnh Ninh Thuận và Bắc Bình Thuận.

Việc tiến hành nghiên cứu nho ở Việt Nam được thực hiện chính của Trung tâm nghiên cứu cây Bông, nơi có chuyên ngành nghiên cứu vụ mùa hoa quả và thực phẩm phục vụ cho nông nghiệp địa phương. Để hiểu nhiều hơn về tầm quan trọng của tình hình trồng nho ở Việt Nam và giúp đỡ người trồng nho nhằm giải quyết vấn đề về sản xuất về giống và công nghệ. Từ năm 1989, Trung tâm nghiên cửu cây Bông Nha Hố ở Ninh Thuận đã tiến hành nghiên cứu một số vấn đề quan trọng trong việc phát triển nghề trồng nho.

1.3.2.1. Tình hình trồng nho ở Việt Nam


Theo Phạm Hữu Nhượng, 2000, ở Việt Nam cây nho được trồng tập trung chủ yếu ở tỉnh Ninh Thuận và Bắc Bình Thuận với diện tích khoảng 2.500-2.700 ha và một số ít ở phía Nam tỉnh Khánh Hòa, trên các vùng khí hậu khô nóng và có lượng mưa thấp. Trong những năm gần đây, cây nho được phát triển ra các tỉnh phía Bắc, vùng có khí hậu nhiệt đới ẩm. Tại vùng này cây nho có thể sống được nhưng sản lượng không đạt như mong muốn do áp lực lớn của bệnh và do cây nho phải ngủ nghỉ qua đông làm giảm mùa vụ khai thác trong năm.

Bảng 1.3: Diện tích trồng nho ở một số tỉnh ở nước ta


Tỉnh

Diện tích trồng nho (ha)

Chú thích

1985

1990

1995

1999

Bấc Giang

0

0

23

3

Nho ăn và nho chê biên (nho rượu và nho khô)

Hà Tây

0

0

16

10

Hải Dương

0

0

17

0

Quảng Ninh

0

0

7

0

Vĩnh Phúc

0

0

12

12

Bình Thuận

0

0

100

250

Trồng nho ăn

Ninh Thuận

26

306

1952

2400

Tồng

26

306

2127

2675


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 166 trang tài liệu này.

Tổ chức lãnh thổ nông - Công nghiệp trồng và chế biến nho ở Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận - 5

Nguồn: FAO, tháng 7, 2001


Nho được trồng với mục đích thương mại bắt đầu những năm cuối thấp kỷ 70 ở phía Bắc tỉnh Thuận Hải (bao gồm tỉnh Ninh Thuận và huyện Tuy Phong của tỉnh Bình Thuận). Ngoài ra, nho còn trồng tại một số xã ở huyện Phú Hòa, Tuy Hòa tỉnh Phú Yên, ở phía Nam tỉnh Khánh Hòa, và một số tỉnh ở phía Bắc như Bắc Giang, Hà Tây, Hải Dương, Quảng Ninh và Vĩnh Phúc, nho bắt đầu trồng với 1 tỉ lệ nhỏ để thử nghiệm. Sau đó, việc nghiên cứu chỉ được thực hiện ở vùng đất trồng nho tỉnh Ninh Thuận.


ha

3000

2750

2500

2400

2000

1952

1709

1615

1500

Ninh Thuận

Bình Thuận

1000

500

306

250

251

298

310

0

026

1985

100

0

1990 1995 1999 2003 2004 2005

Nam


Biểu đồ 1.1: Diện tích trồng nho ở Ninh Thuận và Bình Thuận


Dựa vào bảng 1.3 và biểu đồ 1.1, cho thấy rằng nho được trồng chủ yếu ở Ninh Thuận và Bình Thuận. Hiện nay, diện tích trồng nho chủ yếu ở Ninh Thuận (chiếm 90% diện tích) và Bình Thuận (chiếm 9% diện tích của cả nước). Cho đến nay, số liệu thống kê về sản lượng nho ở Việt Nam chưa được cung cấp bởi Cục Thống Kê vì diện tích trồng nho quá nhỏ so với các cây trồng khác.

Sản lượng nho của Việt Nam đến năm 2003 đạt khoảng 60.000 tấn quả/năm. Sản lượng chủ yếu dùng để ăn tươi, lượng nho quả các nhà máy chế biến rượu thu mua để chế biến rượu vang ước khoảng 300- 400tấn /năm. Còn các cơ sở chế biến xirô nho, mật nho ước khoảng 10.000 tấn /năm.

Giống nho trước đây trồng chủ yếu là giống Cardinal, mỗi năm thu hoạch khoảng năng suất bình quân 200 - 300tạ/ha, năng suất cao nhất là vụ Đông Xuân, Hè Thu, thấp nhất là vụ Thu Đông (bằng 50%).


Hiện nay, nho còn được trồng thử nghiệm ở tỉnh Lâm Đồng. Tuy nhiên quy mô nhỏ. Điển hình có ông Huỳnh Tấn Sơn, thôn Phú Tân, Xã Phú Hội, huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng trồng giống nho mới Cự Phong có nguồn gốc từ Nhật Bản (dưới sự trợ giúp của chuyên gia Nhật Bản) đem lại hiệu quả kinh tế cao. Năm 2003, ông Sơn trồng phủ kín 1,5 ha theo mô hình "trên nho, dưới hoa". Đen năm 2005, ông Sơn thu hoạch vụ đầu tiên vơi 3 tấn nho được tiêu thụ nhanh với giá 30.000 đồng/kg (loại 2) và 45.000 đồng/kg (loại 1).

1.3.2.2. Chính sách của Nhà Nước về phát triển ngành trồng nho


Chính phủ Việt Nam ban hành một số chính sách chung hướng dẫn phát triển mùa vụ cây ăn trái trên cả nước, gồm có nho. Những chính sách này bao gồm việc khuyến khích người nông dân thay đổi mùa vụ cây trồng, đa dạng hóa cây trồng trong nông nghiệp và sản phẩm nông sản với điều kiện là người nông dân được vay tiền với tỉ suất thấp, hấp dẫn và xây dựng hồ chứa nước mới cũng như hệ thống kênh đào chính phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Trong những năm gần đây, Bộ NN & PTNT Việt Nam bước đầu đã đầu tư nghiên cứu và mở rộng nông nghiệp gồm việc khảo sát về kỹ thuật trồng nho cho nông dân, định hình cho việc mở rộng nông nghiệp hiện đại cho việc trồng các giống cây trồng mới giống như chương trình IPM. Tuy nhiên, những đẩu tư mới này quá nhỏ so với những yêu cầu của những người trồng nho đặc biệt kỹ thuật sản xuất.

Năm 1992, tỉnh Ninh Thuận tái thành lập, Tỉnh được phê chuẩn, việc phát triển ngành trồng nho là một trong những nhiệm vụ cho chương trình phát triển KT - XH. Kể từ đó, chính quyền tỉnh bắt đầu quan tâm hơn về việc phát triển ngành trồng nho bằng cách đầu tư nghiên cứu thu thập giống cây trồng, khảo sát vùng thích hợp cho trồng nho và xây dựng chế biến các giống nho rượu,... Tuy nhiên, những đầu tư này vẫn không đủ so với sự cần thiết của sản xuất.

Ở Việt Nam có 4 tổ chức duy trì nghiên cứu cây nho. Đó là Trung tâm nghiên cứu cây Bông, Viện nghiên cứu Rau quả Hà Nội, Trung tâm giống cây trồng và Vật nuôi Ninh Thuận và Trung tâm phát triển KT- XH Bình Thuận.


Tại Trung tâm nghiên cứu cây Bông, từ năm 1994 đến 2000 những giống nho tốt được tiến hành nghiên cứu, giới thiệu và thu thập gồm 61 giống. Trong đó, có 12 giống thu thập trong nước và 49 giống được giới thiệu từ nước ngoài (Pháp, Hoa Kỳ, Australia, Ấn Độ, Thái Lan, Trung Quốc và Đức), gồm 34 giống nho tươi, 25 giống nho rượu và 3 loại gốc ghép. Nhờ vậy, kết quả của việc nghiên cứu thu thập này là một vài giống đặc biệt triển vọng được nhận biết và tiến hành nghiên cứu sâu hơn. Những giống nho tươi được lựa chọn là NH-01- 08, NH-01-48 và NH-01-60, giống nho rượu được lựa chọn là NH-02-04, NH- 02-10 và NH-02-17 và giống nho khô được lựa chọn là NH-01-11.

Ở Viện nghiên cứu Rau quả Hà Nội, 5 giống nho rượu giới thiệu từ Pháp được tiến hành nghiên cứu từ năm 1995. Kết quả, giống Vilard noir được nhận biết là một giống cho khả năng sản xuất cao nhất và chất lượng tốt nhất (Nguyễn Quốc Hùng, Trần Thế Túc, Vũ Mạnh Hải và Stephen Desmazieres, 1999). Bên cạnh đó, Viện vừa được giới thiệu thêm một số giống nho. Hiện tại, có 28 giống trong bộ thu thập ở đây gồm 16 giống nho tươi và 12 giống nho rượu.

Ở Trung tâm giống cây trồng và Vật nuôi Ninh Thuận, giống nho thu thập chính chủ yếu nho rượu từ Australia năm 1995. Năm 1996, các nhà khoa học Đức bổ sung một vài giống nho tươi và nho gốc ghép. Hiện nay, có 33 giống trong bộ sưu tầm gồm 17 giống nho tươi, 13 giống nho rượu và 3 giống gốc ghép. Từ kết quả của việc nghiên cứu thu thập giống, giống nho tươi Black Queen được phục hồi từ chương trình sản xuất thí điểm quy mô nhỏ.

Tại Trung tâm phát triển KT - XH Bình Thuận (thành lập bởi các nhà khoa học Đức với chính quyền tỉnh Bình Thuận), một trong những nhiệm vụ quan trọng là nghiên cứu giống nho cho nông dân huyện Tuy Phong. Cho đến nay, Trung tâm có 42 giống nho thu thập thích nghi được ở đây, trong đó có 32 giống nho tươi, 5 giống nho rượu và 5 giống gốc ghép. Trung tâm cũng đã phục hồi được giống nho tươi Black Queen từ chương trình sản xuất thí điểm quy mô nhỏ.

1.3.2.3. Thị trường


Cho đến nay, hầu hết nho sản xuất chủ yếu ở Ninh Thuận và Bình Thuận được tiêu thụ là nho tươi và một số ít nho với chất lượng kém dùng để chế biến thành nước ép trái cây và rượu nho tại địa phương. Nho được vận chuyển đến mọi nơi ở Việt Nam bởi người buôn bán và người môi giới trung gian.

Bảng 1.4: Thị phần tiêu thụ nho Ninh Thuận năm 2004


Thành phố Hồ Chí Minh

Hà Nội

Các tỉnh khác

Xuất khẩu

60%

30%

9%

1%

Nguồn: Theo Thương lái ở Ninh Thuận


9%

1%

30%

60%

Thành phố Hồ Chí Minh Hà Nội

Các tỉnh khác

Xuất khẩu


Biểu đồ 1.2: Thị phần tiêu thụ nho Ninh Thuận


Theo bảng 1.4 và biểu đồ 1.2, tỷ lệ tiêu thụ nho trong nước hiện tại khoảng 99% chủ yếu là thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Nam Định, Đà Nẵng, Nha Trang, và các tỉnh miền Tây. Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là 2 nơi tiêu thụ lớn nhất nước, thành phố Hồ Chí Minh chiếm 60% nho của Ninh Thuận.

Các tư thương bán lẻ nho trên thị trường ảnh hưởng một phần đến người tiêu dùng. Nho lấy tại điểm trồng giá 3000 - 15000 đồng tùy theo loại nho, tùy theo mùa vụ. Nhưng khi bán ra thị trường đến tay người tiêu dùng, giá cao gấp nhiều lần, nhiều tư thương bán nho Ninh Thuận theo giá nhập khẩu nho từ Thái

Xem tất cả 166 trang.

Ngày đăng: 02/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí