Tổ Chức Hoạt Động Hỗ Trợ Tâm Lý Học Đường

người xin trợ giúp. Trong thời gian này, tiến sĩ Trần Thị Giồng cũng tổ chức nhiều lớp tập huấn về tư vấn tâm lý cho các cán bộ, giáo viên và giáo dục viên đường phố nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng tư vấn cho các đối tượng xã hội làm việc với người bị tổn thương tâm lý [12].

Năm 2003, hội thảo “Nhu cầu tư vấn học đường tại TP HCM” được Viện Nghiên cứu Giáo dục, trường ĐHSP TP HCM tổ chức với sự tham gia của nhiều nhà tâm lý, nhà giáo dục và hiệu trưởng các trường có hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường để “mổ xẻ” và kêu gọi sự quan tâm của giới chuyên môn cũng như các cơ quan chính phủ trong việc có các chiến lược nhằm phát triển hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường tại Việt Nam. Cũng trong thời gian này, một số sinh viên khoa Tâm lý - Giáo dục trường Đại học Sư phạm TPHCM đã chọn đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình về vấn đề tư vấn học đường. Những “sự kiện” này được xem là những bước khởi đầu cho nhiều sự thay đổi tiếp theo của ngành tư vấn học đường tại Việt Nam. Chẳng hạn như: Trương Bích Nguyệt (2003), Bước đầu tìm hiểu sự cần thiết của công tác tư vấn học đường hiện nay ở một số trường cấp 2-3 tại TP.HCM, Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Sư phạm TP.HCM [27]; Võ Thị Tích (2004), Tìm hiểu thực trạng và các giải pháp định hướng về nhu cầu tư vấn học đường của học sinh các trường THCS trong nội thành TP.HCM, Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Sư phạm TP.HCM [31].v.v…

Năm 2004, Trung tâm hỗ trợ tư vấn tâm lý (CACP) thuộc trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội được thành lập và cũng đề cập đến hoạt động nghiên cứu và hỗ trợ hoạt động tư vấn, hỗ trợ tâm lý học đường.

Năm 2005, với sự chấp thuận của Ủy ban Dân số - Gia đình - Trẻ em TP HCM và sự hỗ trợ của UNICEF, Văn phòng tư vấn trẻ em TP HCM tổ chức hội thảo “Kinh nghiệm bước đầu thực hiện mô hình tư vấn trong trường học” đã nhận được sự quan tâm và chia sẻ kinh nghiệm thực tế của nhiều chuyên gia và cán bộ quản lý trường học. Đầu năm 2006, hội nghị toàn quốc về “Tư vấn tâm lý - giáo dục - thực tiễn và định hướng phát triển” do Hội khoa học Tâm lý - Giáo dục TP HCM tổ chức cũng đề cập đến vấn đề tư vấn học đường như là một điều “khẩn thiết” nhằm hỗ trợ học sinh và nhà trường trong hoạt động giáo dục. Sở GD&ĐT TP HCM cũng tổ chức những buổi sinh hoạt đề cập đến hoạt động tư vấn, hỗ trợ học đường trong thời gian này với sự tham gia của các nhà tâm lý, nhà giáo dục, nhà trường và phụ huynh học sinh.

Bên cạnh đó, Bộ GD&ĐT cũng ban hành văn bản nhằm chỉ đạo và hướng dẫn các Sở và trường học cùng những tổ chức liên quan trong việc triển khai thực hiện chương trình tư vấn học đường. (Văn bản số 9971/BGD&ĐT-HSSV, ngày 28/10/2005).

Chuyên mục tư vấn học đường do báo Phụ nữ TP HCM khởi xướng (ThS. Nguyễn Thị Oanh phụ trách) cũng nhận được sự hưởng ứng rất nhiệt tình của đông đảo học sinh, phụ huynh và các trường học. Tháng 06 năm 2006, cuốn sách “Tư vấn tâm lý học đường” của tác giả Nguyễn Thị Oanh đã được Nhà xuất bản Trẻ phát hành trên toàn quốc.

Tại TP HCM, Sở GD&ĐT đã ra quyết định số 1090/QĐ - GDĐT - TC (31/8/2012) về việc ban hành quy định tạm thời về tổ chức và hoạt động công tác tư vấn trường học. Theo đó, giáo viên làm công tác tư vấn được bố trí thời gian làm việc, phòng tư vấn thích hợp và tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức và tham gia các hoạt động. Họ được ưu tiên học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức kinh tế, văn hóa, xã hội… để phục vụ tốt nhất cho công tác tư vấn học sinh. Giáo viên tư vấn học đường được hưởng lương, chế độ và chính sách theo ngạch giáo viên đúng quy định hiện hành chung và được hỗ trợ trong hoạt động (Quyết định số 1090/QĐ-GDĐT-TC).

Ngoài ra, phải kể đến các công trình nghiên cứu của Viện tâm lý học, khoa Tâm lý - giáo dục của trường Đại học Sư Phạm, khoa Tâm lý học – trường Đại học Khoa học Xã hội và nhân văn, các tổ bộ môn Tâm lý Giáo dục của các trường Đại học, Cao đẳng sư phạm trong cả nước. Đó là những cơ sở không chỉ đào tạo ngành tâm lý-giáo dục mà còn là những cơ sở nghiên cứu về tâm lý học đường ở Việt Nam. Ví dụ tác giả Bùi Thị Thoa với đề tài “Nhu cầu được trợ giúp tâm lý của học sinh một số trường trung học phổ thông huyện Đan Phượng - thành phố Hà Nội”, luận văn thạc sĩ ngành tâm lý học lâm sàng trẻ em và vị thành niên 2012; tác giả Nguyễn Thị Ngọc với đề tài: “Khảo sát nhu cầu tham vấn tâm lý của học sinh trung học cơ sở huyện Bình Chánh - Thành phố Hồ Chí Minh”, luận văn thạc sĩ tâm lý học 2012; tác giả Phạm Thanh Bình với đề tài: “Nhu cầu tham vấn tâm lý học đường của học sinh trung học cơ sở”, luận án tiến sĩ tâm lý học 2014.v.v…

Những nghiên cứu đã phần nào cho thấy khó khăn, rối nhiễu tâm lý mà học sinh hay gặp phải là rất đa dạng. Học sinh ở bất kì cấp học nào cũng đều có nguy cơ mắc phải những rối nhiễu này. Điều này chứng tỏ rằng, hoạt động, tư vấn, hỗ trợ tâm lý học đường là rất cần thiết. Với những hiệu quả mà dịch vụ mang lại, chắc chắn sẽ góp phần giúp các em giải quyết các khó khăn tâm lý, hạn chế tối đa những rối nhiễu tâm lý mà các em có khả năng gặp phải, đảm bảo sự phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần.

Như vậy, hỗ trợ tâm lý học đường tại Việt Nam là một trong những vấn đề mang tính thời sự cao, thu hút sự quan tâm không chỉ của các nhà quản lý, các chuyên

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 141 trang tài liệu này.

gia, các tổ chức trong nước và quốc tế mà ngay cả các em học sinh - sinh viên, các bậc cha mẹ, các thầy cô giáo. Tuy nhiên, để nó trở thành một hoạt động phổ biến trong trường học thì đòi hỏi phải có thời gian và sự nỗ lực lớn của không chỉ người làm công tác hỗ trợ tâm lý học đường, các nhà quản lý mà còn của toàn xã hội. Hơn nữa, vấn đề hỗ trợ tâm lý học đường ở trường THCS hiện nay còn ít được quan tâm đề cập tới. Do đó, chúng tôi cho rằng vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu một cách đầy đủ hơn.

1.2. Các khái niệm cơ bản

Tổ chức hoạt động hỗ trợ tâm lí học đường ở các trường trung học cơ sở thành phố Thái Nguyên - 3

1.2.1. Khái niệm tâm lý học đường

Tâm lý học đường (chuyển dịch từ thuật ngữ tiếng Anh là “school Psychology” hay còn gọi bằng thuật ngữ quen thuộc là Tâm lý học đường (TLHĐ) đã xuất hiện và chính thức ra đời từ cuối thế kỷ thứ XIX-đầu thế kỷ XX tại Hoa Kỳ. Giai đoạn từ 1890 đến 1969 là giai đoạn TLHĐ ẩn trong hoạt động và công việc của các chuyên gia đánh giá tâm lý- giáo dục với mục đích xếp lớp giáo dục đặc biệt cho học sinh. Cho đến nay, tâm lý giáo dục đã và đang được nhân rộng, triển khai ở nhiều nước trên thế giới.

Tháng 3 năm 2006, báo phụ nữ TP Hồ Chí Minh và nhà xuất bản trẻ cho ra đời cuốn sách “Tư vấn tâm lý học đường” của tác giả Nguyễn Thị Oanh. Trong đó, tuy tác giả không đưa ra được định nghĩa chính thức, song từ nội dung cuốn sách cho thấy khái niệm “Tâm lý học đường” được hiểu ngầm là một chuyên ngành của khoa học tâm lý, chuyên ngành nghiên cứu về cách giải quyết những khó khăn tâm lý xuất hiện ở tuổi học sinh trong các mối quan hệ với gia đình, bạn bè, học tập, định hướng nghề nghiệp…cần được giải quyết kịp thời nhằm tháo gỡ những rào cản ảnh hưởng xấu đến kết quả học tập và sựu phát triển nhân cách tốt đẹp của học sinh.

Hội nghị quốc tế lần thứ hai về tâm lý học đường ở Việt Nam đã cho rằng: “Tâm lý học đường là chuyên ngành khoa học hướng hoạt động nghiên cứu và ứng dụng của mình đến mục tiêu giải quyết những vấn đề tâm lý nảy sinh trong môi trường học đường” [40]

Dựa trên những tài liệu và các nghiên cứu của các cán bộ tâm lý học đường có uy tín hiện nay, các chuyên gia tâm lý học đường đã thống nhất đưa ra một vài khái niệm và đang được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực tâm lý học đường:

Tâm lý học trường học (TLHTH) hay tâm lý học đường (TLHHĐ) là một chuyê ngành thực hiện công việc đánh giá (phòng ngừa) nhằm phát hiện những học sinh có thể có khó khăn về nhận thức, xúc cảm xã hội hay xúc cảm hành vi; phát triển và thực hiện các chương trình can thiệp tâm lý học sinh; cố vấn học sinh; tham gia

phát triển và lượng giá chương trình; nghiên cứu, giảng dạy, hỗ trợ và giám sát cho những người đang học nghề.

Ngày 14 tháng 01 năm 2011 nhóm tác giả Trần Thị lệ Thu, Lê Văn Hảo, Lê Nguyên Phương, Đặng Hoàng Minh đề xuất khái niệm tâm lý học trường học hay tâm lý học đường như sau:

Tâm lý học trường học (hay còn gọi là tâm lý học học đường) là một chuyên ngành tâm lý ứng dụng nhằm thực hiện công tác phát hiện sớm, phòng ngừa và can thiệp cho trẻ em-thanh thiếu niên trong các lĩnh vực nhận thức, học tập, hành vi, cảm xúc hoặc xã hội ở môi trường học đường, gia đình và cộng đồng; đồng thời tham gia nghiên cứu, xây dựng, phát triển và lượng giá các chương trình này” [41].

1.2.2. Khái niệm hỗ trợ tư vấn tâm lý học đường

Hỗ trợ tâm lý học đường là ứng dụng thực tế của tâm lý học đường trong trường học. Nó có vai trò trung tâm là trợ giúp tâm lý cho học sinh, cho ban giám hiệu, giáo viên và cha mẹ học sinh. Hỗ trợ tâm lý học đường là một hệ thống ứng dụng các tri thức tâm lý học vào thực tiễn nhằm tạo ra các điều kiện thuận lợi, tối đa giúp cho học sinh có thể tự quyết định hay giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống học đường của mình theo hướng tích cực để phát triển nhân cách toàn diện.

1.2.3. Khái niệm tổ chức

Khái niệm “tổ chức”có thể xem xét theo các phương diện khác nhau.

Thứ nhất, xét theo phương diện danh từ, tổ chức được hiểu là một nhóm người, một tập thể, một đơn vị nhất định trong xã hội. Theo từ điển Tiếng Việt (2002), "Tổ chức là tập hợp người được tổ chức lại, hoạt động vì những quyền lợi, lợi ích chung nhằm một mục đích chung" [28].

Dưới góc độ Triết học, tổ chức là cơ cấu tồn tại của sự vật. Sự vật không thể tồn tại mà không có một hình thức liên kết nhất định các yếu tố thuộc nội dung. Tổ chức vì vậy là thuộc tính của bản thân các sự vật.

Theo các tác giả Harold Koontz, Cyril O’Donnell, Heinz Weihrich: “Tổ chức chỉ một cơ cấu chủ định về vai trò, nhiệm vụ hay chức vụ được hợp thức hóa”. Có thể hiểu “cơ cấu chủ định về vai trò nhiệm vụ” là mỗi người trong cùng một tổ chức cùng làm việc với nhau, phải có vai trò nhất định, việc thực hiện công việc của họ phải có chủ đích để đảm bảo công việc của họ phối hợp và ăn khớp với nhau và cùng hướng vào mục tiêu chung [Error! Reference source not found.].

Hoặc cũng có thể hiểu: “Tổ chức là một nhóm người có chuyên môn sâu làm việc cùng nhau để thực hiện một nhiệm vụ chung”. Mỗi tổ chức luôn luôn có tính chuyên môn hóa. Tổ chức chỉ hoạt động có hiệu quả khi nó chỉ tập trung vào một

nhiệm vụ, chẳng hạn như trường học thì tập trung vào dạy và học. Như vậy, tổ chức là nơi hành động [Error! Reference source not found.].

Thứ hai, xét theo phương diện động từ, tổ chức được xem như một hoạt động, tổ chức là một trong các chức năng của nhà quản lý. Đó là một quá trình đề ra những sự liên hệ chính thức giữa những con người và tài nguyên để đi đến mục tiêu. Theo các giáo sư George P.Huber và Reuben R. McDaniel, chức năng tổ chức là sự phối hợp các nỗ lực qua việc thiết lập một cơ cấu về cách thực hiện công việc trong tương quan với quyền hạn. Nói một cách khác, chức năng tổ chức là tiến trình sắp xếp và các công việc tương đồng thành từng nhóm, để giao phó cho từng khâu nhân sự có khả năng thi hành, đồng thời phân quyền cho từng khâu nhân sự tùy theo công việc được giao phó.

Tổ chức là một quá trình giúp cho mọi người cùng làm việc với nhau nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu, cần xây dựng và duy trì một cơ cấu nhất định về những vai trò, nhiệm vụ và vị trí công tác. Có thể nói việc xây dựng các vai trò, nhiệm vụ là chức năng tổ chức trong quản lý. Vai trò của một bộ phận hay một cá nhân, hàm ý bộ phận hay cá nhân đó hiểu rõ công việc mình làm nằm trong một phạm vi nào đó, nhằm mục đích hoặc mục tiêu nào, công việc của họ ăn khớp như thế nào với các cá nhân hoặc bộ phận khác và những thông tin cần thiết để hoàn thành công việc.

Từ đó có thể hiểu: Tổ chức là chức năng của nhà quản lý, đó là quá trình sắp xếp, phân công công việc trong đơn vị, đồng thời phối hợp hoạt động của đơn vị theo một xu hướng chung nhằm đạt được các mục tiêu của quản lý.

Để quá trình tổ chức hoạt động diễn ra có hiệu quả, nhà quản lý cần lập kế hoạch cho việc triển khai hoạt động, đồng thời chỉ đạo và kiểm tra, đánh giá việc triển khai kế hoạch một cách sát sao. Như vậy, chức năng tổ chức của nhà quản lý không thể tách rời các chức năng: lập kế hoạch, chỉ đạo, kiểm tra và đánh giá hoạt động trong đơn vị.

1.2.4. Khái niệm hoạt động

Hoạt động là quá trình tác động qua lại tích cực giữa con người với thế giới khách quan mà qua đó mối quan hệ thực tiễn giữa con người với thế giới khách quan được thiết lập.

Trong mối quan hệ đó có hai quá trình diễn ra đồng thời và bổ sung cho nhau, thống nhất với nhau là quá trình đối tượng hoá và quá trình chủ thể hoá.

- Quá trình đối tượng hóa là quá trình chủ thể chuyển năng lực của mình thành sản phẩm của hoạt động, hay nói khác đi tâm lý người được bộc lộ, được khách quan hóa trong quá trình làm ra sản phẩm.

- Quá trình chủ thể hóa là quá trình chuyển từ phía khách thể vào bản thân chủ thể những quy luật, bản chất của thế giới để tạo nên tâm lý, ý thức nhân cách của bản thân bằng cách chiếm lĩnh thế giới.

Trong hoạt động, con người vừa tạo ra sản phẩm về phía thế giới, vừa tạo ra tâm lý của mình, hay nói khác đi tâm lý, ý thức, nhân cách được bộc lộ và hình thành trong hoạt động [42].

Hoạt động của con người là hoạt động có mục đích, mục đích của hoạt động sẽ chi phối nôi dung, phương pháp, phương tiện hoạt động tương ứng.

Như vậy có thể hiểu: Hoạt động là quá trình tác động của chủ thể vào đối tượng nhằm đạt được những mục đích nhất định.

1.2.5. Hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường

Theo giáo trình tâm lý học giáo dục [Error! Reference source not found.], hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường là hoạt động trợ giúp về tâm lý, sức khỏe, giáo dục và các vấn đề nảy sinh trong đời sống xã hội được tiến hành trong môi trường học đường. Đối tượng của hoạt động hỗ trợ là học sinh, phụ huynh học sinh, thầy cô giáo và các lực lượng giáo dục khác. Mục đích của hỗ trợ tâm lý học đường nhằm đánh giá nhu cầu về chăm sóc sức khỏe tâm thần của học sinh; phòng ngừa khó khăn và rối nhiễu tâm lý; hỗ trợ học sinh, giáo viên, phụ huynh học sinh giải quyết các vấn đề vướng mắc trong đời sống tâm lý của học sinh; nghiên cứu và phát triển chương trình hỗ trợ, can thiệp trong trường học.

Nội dung của hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường cho các đối tượng (thân chủ) bao gồm các vấn đề như sau:

Đối với học sinh: Những vấn đề về học tập, thi cử; mối quan hệ với bạn bè, thầy cô, cha mẹ; định hướng nghề nghiệp tương lai; những thắc mắc về giới tính, tình yêu.

Đối với giáo viên: Điều chỉnh các mối quan hệ với học sinh; các phát hiện bất thường, đặc biệt ở học sinh; tham gia quá trình phục hồi, chăm sóc sức khỏe tinh thần cho giáo viên.

Đối với Nnhà trường: Điều chỉnh môi trường sư phạm, phương pháp giảng dạy, giáo dục tác động đến sức khỏe tinh thần và kết quả học tập của học sinh.

Đối với Cha mẹ và gia đình học sinh: Vấn đề quan hệ trong gia đình tác động đến học tập và các mối quan hệ trong trường học của học sinh; quan hệ nhà trường, gia đình.

Đối với cộng đồng: Phát hiện các vấn đề nổi cộm của học sinh theo địa bàn hoặc thời gian trong mối quan hệ/môi trường: nhà trường - gia đình - cộng đồng.

Như vậy, hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường là một lĩnh vực có tính chất thiết

thực, phong phú, đa dạng nhưng cũng rất phức tạp, nhạy cảm, gắn liền với đời sống tâm lý của học sinh. Nghiên cứu về hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường là nghiên cứu về hoạt động trợ giúp tâm lý cho học sinh, bởi lẽ hoạt động giáo dục sẽ diễn ra thuận lợi khi học sinh có tâm thế tốt, khỏe mạnh cả về thể chất và tâm lý. Hoạt động hỗ trợ tâm lý trong trường học góp phần chuẩn bị tâm thế cho học sinh trước các hoạt động giáo dục trong nhà trường.

Hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường cho đối tượng học sinh bao gồm 3 cấp độ:

Cấp độ 1 (Đối với toàn bộ học sinh): Những hoạt động hướng vào toàn bộ học sinh nhằm chủ động phòng ngừa, giảm tỷ lệ các khó khăn, rối nhiễu tâm lý, tăng cường sức khỏe tâm thần thông qua việc trang bị kiến thức và kỹ năng để các em có hiểu biết về bản thân, có năng lực ứng phó và xử lý những thách thức, khó khăn, rỗi nhiễu tâm lý mà các em có thể phải đối diện qua mỗi giai đoạn lứa tuổi.

Cấp độ 2 (Can thiệp nhóm): Những hoạt động hướng vào đối tượng học sinh hiện tại có khủng hoảng tức thời, có nguy cơ gặp khó khăn, rối nhiễu tâm lý (các nhóm yếu thế, có hoàn cảnh khó khăn,…) nhằm giảm thiểu tác động của khủng hoảng, hỗ trợ học sinh giải quyết các vấn đề trong đời sống tâm lý, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các em. Việc can thiệp nhóm cụ thể theo cấp độ thường đem lại hiệu quả cao, nhanh chóng thu được kết quả.

Cấp độ 3 (Can thiệp cá nhân và chuyên sâu): Những hoạt động hỗ trợ tâm lý hướng vào từng học sinh riêng lẻ được xác định có nguy cơ cao, có khó khăn, rối nhiễu tâm lý cần được phát hiện sớm, phối hợp can thiệp kịp thời. Những học sinh có rối nhiễu tâm lý nặng được chuyển tới các cơ sở can thiệp lâm sàng phù hợp; đồng thời, phối hợp thực hiện hoạt động trợ giúp phù hợp trong thời gian học sinh được can thiệp chuyên sâu và sau khi kết thúc giai đoạn can thiệp chuyên sâu.

Hoạt động hỗ trợ tâm lý có chức năng trợ giúp học sinh trong việc bộc lộ, thể hiện tâm tư, chia sẻ mong muốn, khó khăn và nguyện vọng của mình. Vì thế, giáo viên và phụ huynh sẽ dễ hiểu các em hơn, dễ có chiến lược đón nhận và tổ chức hoạt động giáo dục phù hợp với các em.

Chúng ta có thể hiểu về bản chất của hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường được như sau: Hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường là hoạt động trợ giúp học sinh, tư vấn cho học sinh nâng cao năng lực tự giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong học tập, quan hệ xã hội, định hướng nghề nghiệp; nâng cao năng lực cho giáo viên, phụ huynh học sinh và các lực lượng giáo dục khác trong việc phát hiện sớm khó khăn, rối nhiễu tâm lý ở học sinh; đồng thời phát triển các chương trình phòng ngừa, can thiệp thích hợp trong nhà trường. Tất cả những điều này nhằm đảm bảo sự ổn định

về sức khỏe tâm lý cho học sinh và tạo điều kiện tốt nhất cho các em tham gia học tập, rèn luyện, phát triển nhân cách [Error! Reference source not found.].

1.2.6. Tổ chức hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường

Trên cơ sở các khái niệm: Tâm lý học đường, hỗ trợ tâm lý học đường, tổ chức, hoạt động, hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường, chúng ta có thể hiểu: Tổ chức hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý (Hiệu trưởng) đến hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường, giúp cho hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường đạt được mục tiêu giáo dục.

Tổ chức hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường là một quá trình, một liên kết những người có chuyên môn sâu làm việc cùng nhau để thực hiện nhiệm vụ chung bằng cách tác động qua lại tích cực giữa chủ thể và đối tượng, giữa nhà quản lý, giáo viên với học sinh trong môi trường học đường nhằm tạo ra các điều kiện thuận lợi, tối đa giúp cho học sinh có thể tự quyết định hay giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống học đường của mình theo hướng tích cực để phát triển nhân cách toàn diện.

Hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường bao gồm:

- Hoạt động chẩn đoán tâm lý học sinh: hoạt động này mang tính định hướng cho các nhà tâm lý học trong trường học. Hoạt động này nhằm chẩn đoán để lập hoặc bổ sung dữ liệu cho hồ sơ tâm lý học đường của học sinh; chẩn đoán để xác định phương thức và hình thức giúp đỡ học sinh khi các em gặp khó khăn trong học tập, trong giao tiếp và những khó khăn khác có liên quan; chẩn đoán nhằm lựa chọn phương tiện, công cụ và hình thức trợ giúp học sinh trong quá trình học tập một cách phù hợp nhất.

- Hoạt động dự phòng và phát triển tâm lý: hoạt động này được tiến hành với tất cả học sinh trong trường học nhằm tạo ra những điều kiện tâm lý - xã hội thuận lợi để học sinh có thể phát triển tốt nhất về mọi mặt và nâng cao được chất lượng cuộc sống tinh thần của mình. Hoạt động này bao gồm các nội dung: Giáo dục các kỹ năng sống cho học sinh; phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu ở học sinh hoặc bồi dưỡng các nhân tài, thần đồng; chẩn đoán sớm các rối nhiễu tâm lý có thể xuất hiện ở học sinh; hạn chế đến mức tối đa các rối nhiễu tâm lý học đường ở học sinh.

- Hoạt động tư vấn tâm lý cho học sinh, giáo viên và phụ huynh: đặc thù của tư vấn tâm lý học đường thể hiện ở đối tượng được tư vấn gồm có học sinh, giáo viên và phụ huynh học sinh. Đồng thời thể hiện ở nội dung tư vấn là các vấn đề liên quan đến

Xem tất cả 141 trang.

Ngày đăng: 22/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí