MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục đào tạo là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà Đảng và Nhà nước đặt lên hàng đầu. Thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04 tháng 11 năm 2013 của BCH Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và hội nhập Quốc tế.
Qua các năm triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và các chủ trương của Đảng, Nhà nước về định hướng chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lĩnh vực giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thành công của sự nghiệp giáo dục tạo được niềm tin tưởng đối với người học, tuy nhiên một số vấn đề được xã hội quan tâm nổi lên trong giáo dục đào tạo hiện nay đó là: Tình trạng bạo lực học đường, ma túy học đường, yêu sớm, tình trạng xâm hại tình dục trẻ em diễn ra có chiều hướng gia tăng và ngày càng phức tạp, nhiều vụ án xâm hại tình dục trẻ em, bạo lực học đường xảy ra gây hậu quả nghiêm trọng về mặt tâm, sinh lý cho nạn nhân, tạo bức xúc trong nhân dân. Việc học sinh “Yêu sớm" ảnh hưởng đến kết quả học tập. Nhằm hạn chế đến mức tối đa hậu quả của vấn đề trên, cần có cách nhìn cụ thể, rất cần tới sự giáo dục, hỗ trợ tâm lý học đường, từ đó áp dụng các biện pháp cần thiết, góp phần tạo hiệu quả phòng ngừa.
Hiện nay cả nước đang tích cực thực hiện việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phổ thông nói chung và cấp THPT nói riêng, với mục tiêu hình thành những năng lực cần thiết cho học sinh. Các cấp quản lí giáo dục đã có những giải pháp đồng bộ để thực hiện được mục tiêu đó.
Bộ Giáo dục đã ban hành Thông tư số 31/2017/TT-BGDĐT ngày 18 tháng 4 năm 2017 về việc hướng dẫn thực hiện công tác tư vấn tâm lý cho học sinh trong trường phổ thông. Mục tiêu của công tác tư vấn tâm lý cho học sinh nhằm phòng ngừa, hỗ trợ và can thiệp (khi cần thiết) đối với học sinh đang gặp phải khó khăn về tâm lý trong học tập và cuộc sống để tìm hướng giải quyết phù hợp, giảm thiểu tác động tiêu cực có thể xảy ra; góp phần xây dựng môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện và phòng, chống bạo lực học đường; hỗ trợ học sinh rèn luyện kỹ năng sống; tăng cường ý chí, niềm tin, bản lĩnh, thái độ ứng xử phù hợp trong các
mối quan hệ xã hội; rèn luyện sức khỏe thể chất và tinh thần, góp phần xây dựng và hoàn thiện nhân cách.
Thực tế cho thấy hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường ở các trường THCS trên địa bàn thành phố Thái Nguyên trong những năm qua đã có hướng triển khai, song quy mô còn chưa đồng bộ, do một số khó khăn nhất định mà việc tổ chức thực hiện các hoạt động trên địa bàn thành phố Thái Nguyên nói chung và tại một số trường nói riêng còn mang tính hình thức, chiếu lệ, chưa đi vào chiều sâu, hiệu quả chưa cao. Một trong những nguyên nhân của thực trạng là do công tác tổ chức hỗ trợ tâm lý học đường các trường THCS chưa được quan tâm một cách thỏa đáng. Cán bộ quản lý và giáo viên phụ trách chưa có chuyên môn, chưa có những phương pháp phù hợp để thúc đẩy hoạt động, phát huy vai trò trách nhiệm trong việc tổ chức hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường. Điều này đòi hỏi phải có những nghiên cứu cụ thể, tạo cơ sở cho việc đề xuất các biện pháp quản lý và triển khai hoạt động phù hợp với tình hình thực tiễn. Chính vì những lý do trên mà chúng tôi lựa chọn vấn đề: “Tổ chức hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường ở các trường THCS thành phố Thái Nguyên” làm đề tài luận văn để nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Có thể bạn quan tâm!
- Tổ chức hoạt động hỗ trợ tâm lí học đường ở các trường trung học cơ sở thành phố Thái Nguyên - 1
- Tổ Chức Hoạt Động Hỗ Trợ Tâm Lý Học Đường
- Một Số Vấn Đề Cơ Bản Về Tổ Chức Hoạt Động Hỗ Trợ Tâm Lí Học Đường Ở Trường Thcs
- Hiệu Trưởng Trường Thcs Với Vai Trò Tổ Chức Hoạt Động Hỗ Trợ Tâm Lý Học Đường
Xem toàn bộ 141 trang tài liệu này.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất một số biện pháp tổ chức hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường ở các trường THCS thành phố Thái Nguyên, nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục ở các trường THCS trên địa bàn thành phố Thái Nguyên.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Tổ chức hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường ở trường THCS.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp tổ chức hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường ở các trường THCS thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.
4. Giả thuyết khoa học
Quá trình tổ chức hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường ở các trường THCS thành phố Thái Nguyên còn có những hạn chế như: Nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động chưa hiệu quả; một số cán bộ quản lý, giáo viên chưa nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường. Nếu đề xuất và thực hiện một cách đồng bộ các biện pháp tổ chức phù hợp với tình hình thực tiễn thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường ở các trường
THCS thành phố Thái Nguyên, từ đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của các nhà trường.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về tổ chức hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường ở trường THCS.
5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng tổ chức hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường ở các trường THCS thành phố Thái Nguyên.
5.3. Đề xuất một số biện pháp tổ chức hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường ở các trường THCS thành phố Thái Nguyên.
6. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
6.1. Về nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp tổ chức hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường ở các trường THCS thành phố Thái Nguyên.
6.2. Về khách thể điều tra và địa bàn khảo sát
- Về khách thể điều tra: Đề tài tiến hành khảo sát 264 khách thể, trong đó có 31cán bộ quản lý; 73 giáo viên; 160 học sinh.
- Về địa bàn khảo sát: Đề tài tiến hành khảo sát tại 4 trường THCS của thành phố Thái Nguyên, bao gồm: Trường THCS Quang Trung, Trường THCS Chu Văn An, Trường THCS Trưng Vương, Trường THCS Gia Sàng. Ngoài ra chúng tôi còn khảo sát thêm một số cán bộ quản lý ở các trường THCS khác trên địa bàn TP Thái Nguyên.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống hóa các tài liệu lý luận như nghiên cứu lý luận về hỗ trợ tâm lý học đường; nghiên cứu chủ trương của Đảng, Nhà nước, của Bộ Giáo dục và Đào tạo về chiến lược phát triển giáo dục nói chung và giáo dục THCS nói riêng để xây dựng khung lý thuyết cho đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
7.2 1. Phương pháp quan sát
Tiến hành quan sát các hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường ở các trường THCS thành phố Thái Nguyên, các hình thức tổ chức hoạt động của nhà quản lý... nhằm thu thập thông tin thực tiễn cho đề tài.
7.2.2. Phương pháp đàm thoại
Trao đổi, trò chuyện, phỏng vấn một số cán bộ quản lý, tư vấn viên, giáo viên ở các trường THCS thành phố Thái Nguyên để tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân của thực trạng hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường ở các trường THCS trên địa bàn thành
phố, đồng thời làm sáng tỏ những thông tin thu nhận được từ phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi.
7.2.3. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Phương pháp này được sử dụng với mục đích khảo sát nhu cầu, nhận thức, sự đánh giá của các khách thể điều tra về các hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường ở các trường THCS thành phố Thái Nguyên.
7.2.4. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Phương pháp này được sử dụng với mục đích xin ý kiến của các chuyên gia, các nhà quản lý, các giáo viên có nhiều kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm về việc xây dựng và đề xuất các biện pháp tổ chức hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường các trường THCS, đồng thời kiểm tra tính cần thiết và tính khả thi của các biện pháp đề xuất.
7.2.5. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục
Phương pháp này được sử dụng với mục đích đánh giá, tổng kết công tác quản lý hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường cho học sinh của Hiệu trưởng các trường THCS thành phố Thái Nguyên để thu thập thêm thông tin thực tiễn cho đề tài.
7.3. Các phương pháp bổ trợ
Sử dụng một số công thức toán thống kê, biểu đồ để xử lý và biểu đạt các kết quả nghiên cứu thực tiễn.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Khuyến nghị; Tài liệu tham khảo; Phụ lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường ở trường THCS.
Chương 2: Thực trạng tổ chức hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường ở các trường THCS thành phố Thái Nguyên.
Chương 3: Biện pháp tổ chức hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường ở các trường THCS thành phố Thái Nguyên.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG
HỖ TRỢ TÂM LÝ HỌC ĐƯỜNG Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC SƠ SỞ
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Trên thế giới
Hỗ trợ tâm lý học đường là một lĩnh vực nghiên cứu được bắt đầu chú trọng từ những năm 80 của thế kỷ XX khi vấn nạn rối nhiễu tâm lý trở nên nghiêm trọng trong xã hội công nghiệp hiện đại. Đặc biệt, nhu cầu hỗ trợ tâm lý học đường của học sinh, sinh viên được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm nghiên cứu bởi đó là một trong những cơ sở quan trọng cho việc thành lập và nội dung hoạt động của các phòng tâm lý học đường trong trường học. Từ đó cho đến nay, có khá nhiều cách tiếp cận về lĩnh vực này, tuy nhiên, có thể khái quát một số xu hướng nghiên cứu chính như sau:
* Xu hướng thứ nhất: Nghiên cứu đánh giá thực trạng nhu cầu hỗ trợ tâm lý học đường của học sinh, sinh viên ở các bậc học và trẻ khuyết tật.
Đây là xu hướng nghiên cứu khá phổ biến trên thế giới. Các nội dung nghiên cứu thường tập trung làm rõ nhu cầu nhận hỗ trợ từ các trung tâm tư vấn, các vấn đề cần tư vấn, tần suất đến phòng tâm lý học đường, nguyên nhân cản trở đến các dịch vụ hỗ trợ, tư vấn, mối quan hệ giữa stress và nhu cầu tư vấn… Các nghiên cứu theo khuynh hướng này cho thấy những vấn đề mà học sinh, sinh viên cần hỗ trợ tâm lý thường là các mối quan hệ xã hội, sự phát triển nghề nghiệp, giá trị sống, kĩ năng học tập, việc rèn luyện và phát triển bản thân (Egbochuku, 2008; Nyutu & Gysbers, 2007; Morgan, Stiffan, Shaw & Wilson, 2007). Các kết quả nghiên cứu khẳng định rằng, tần suất đến phòng tâm lý học đường của học sinh, sinh viên là khá hạn chế vì họ bị cản trở bởi nhiều nguyên nhân, như: lo ngại về tính bảo mật của thông tin cá nhân; sự phức tạp của một số quy trình tư vấn, hỗ trợ tâm lý; không tự tin vào bản thân và không tin tưởng vào trình độ chuyên môn nghiệp vụ của của đội ngũ hỗ trợ tâm lý học đường (Morgan, Stiffan, Shaw Wilson, 2007). Kết quả của các nghiên cứu đồng thời cho thấy học sinh, sinh viên với nhu cầu khác nhau sử dụng các dịch vụ hỗ trợ, tư vấn tâm lý khác nhau. Có thể nói, xu hướng khảo sát thực trạng tư vấn, hỗ trợ tâm lý học đường cũng là một xu hướng nổi bật ở các nước Châu Á hiện nay, nơi mà hỗ trợ tâm lý học đường, hỗ trợ giáo dục vẫn là một lĩnh vực còn khá mới mẻ. Vì thế, những nghiên cứu về thực trạng hỗ trợ tâm lý học đường nói chung và tổ chức hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường của nhà quản lý nói riêng ở các trường là hết sức cần thiết nhằm phát triển thế hệ trẻ một cách toàn diện theo xu thế chung của thời đại.
Đối với các nước Âu Mỹ, xu hướng khảo sát thực trạng hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường chỉ phát triển và được chú trọng vào những năm 80 và 90 của thế kỷ
XX. Hiện nay, việc điều tra về nhu cầu hỗ trợ tâm lý học đường ở học sinh, sinh viên nói chung là điều tất yếu mà các trung tâm tư vấn trong các trường học từ bậc tiểu học đến bậc đại học ở các nước Âu Mỹ phải chú trọng thực hiện hàng năm, hàng quý. Việc khảo sát này hầu hết được tiến hành và xử lý một cách chuyên nghiệp và khoa học qua các hệ thống trực tuyến trên các website. Ngoài ra, có thể nhận thấy hiện nay việc nghiên cứu thực trạng hoạt động tư vấn, hỗ trợ tâm lý học đường ở các nước Âu Mỹ hầu như chỉ hướng đến các đối tượng đặc biệt như trẻ khuyết tật, học sinh, sinh viên có năng khiếu đặc biệt (Peterson, 2006), những học sinh nổi bật nhưng lại bị khuyết tật học tập (academically talented students with learning disability) (Reis & Colbert, 2004) [dẫn theo 3].
* Xu hướng thứ hai: Phát triển các thang đo về nhu cầu tư vấn, hỗ trợ tâm lý
Theo Nyutu (2001), ban đầu, những nghiên cứu về nhu cầu tư vấn, hỗ trợ tâm lý theo xu hướng điều tra (survey research) được thực hiện dựa trên một số công cụ và phương pháp đơn giản như phỏng vấn theo nhóm, phỏng vấn trọng tâm (focus group) và bảng hỏi…hoặc chỉ sử dụng các công cụ đánh giá về nhu cầu (Students Needs Assessment Survey) ở học sinh, sinh viên. Về sau, nhằm đánh giá chính xác, khách quan và khoa học về thực trạng nhu cầu tư vấn, hỗ trợ tâm lý ở học sinh, sinh viên nói trên, việc xây dựng và phát triển các thang đo về nhu cầu tư vấn, hỗ trợ tâm lý có đầy đủ tính hiệu lực và độ tin cậy được chú trọng.
Ở Châu Phi, thang đo “The Students Counseling Needs Scale” (Thang đo nhu cầu tư vấn cho học sinh) của Nyutu (2007) được sử dụng khá phổ biến. Thang đo này cũng được chính Nyutu & Gysbers (2010) sử dụng trong một nghiên cứu gần đây “Nhu cầu tư vấn của học sinh trung học phổ thông Kenya”. Nghiên cứu được thực hiện trên học sinh THPT ở Kenya. Nghiên cứu một lần nữa khẳng định tầm quan trọng của việc sử dụng công cụ đánh giá để xác định nhu cầu tư vấn tại Kenya thay cho các công cụ đánh giá nhu cầu chung ở học sinh, sinh viên. Xu hướng này vẫn đang rất được khuyến khích tại các nước Châu Á và Châu Phi.
Riêng ở các nước Châu Âu và Châu Mỹ, các nghiên cứu về phát triển thang đo và công cụ đánh giá nhu cầu tư vấn, hỗ trợ tâm lý học đường đang dần được chú trọng. Các công cụ này hỗ trợ rất lớn cho các nhà tư vấn xây dựng mô hình tư vấn, hỗ trợ đáp ứng đúng nhu cầu của học sinh, sinh viên như McGannon, Carey & Dimmitt (2007) có nhận định: “Tư vấn học đường có tiềm lực to lớn trong việc giúp học sinh, sinh viên đạt các tiêu chuẩn cao hơn trong các lĩnh vực học đường và cuộc sống;
điều này phần lớn phụ thuộc vào các công cụ đo lường nhu cầu tư vấn, hỗ trợ tâm lý và các phương pháp cải thiện hành vi của học sinh, sinh viên” (Corey Gerald (1991), Theory and Practice of Counseling and Psychotherapy, Brooks/Cole Publishing Company) [dẫn theo 3].
* Xu hướng thứ ba: Nghiên cứu xây dựng các mô hình hỗ trợ tâm lý học đường thay đổi nội dung, chương trình hoạt động tư vấn học đường.
Đây là một xu hướng nghiên cứu mang tính thực tiễn và có ý nghĩa xã hội rất lớn. Nhiều mô hình hỗ trợ tâm lý đã và đang được phát triển, mang lại hiệu quả cao tại một số trường đại học và các trường phổ thông.
Ở Hoa Kỳ có mô hình tư vấn học sinh dựa trên kinh nghiệm; mô hình tư vấn của Trường Illinois (2007), mô hình tư vấn của Trường đại học tổng hợp Winsconsin (2008) và đặc biệt là mô hình tư vấn chuyển đổi của các tác giả Eschenauer và Chen - Hayes (2005) dành cho các trường học ở đô thị... Bên cạnh đó, còn có các mô hình tâm lý học đường như mô hình phân phối dịch vụ tâm lý học trường học 3 tầng (năm 2008), mô hình dịch vụ tư vấn học đường tích hợp và toàn diện (năm 2010).
Ở Pháp đã hình thành một mạng lưới hỗ trợ đặc biệt (RASED). Đây là mô hình trợ giúp đặc biệt bao gồm những hoạt động cùng nhau phòng ngừa và khắc phục khi GV không có biện pháp thay thế nào. Mạng lưới RASED có hai nhiệm vụ chính là phòng ngừa và chỉnh trị, hỗ trợ.
Ở Singapore có mô hình Dịch vụ chăm sóc học sinh (Student Care Service - SCS). Ở Trung Quốc có mô hình chăm sóc sức khỏe tâm thần tại các nhà trường cho học sinh các cấp… Các nghiên cứu đã cho thấy được nội dung, đặc điểm, biểu hiện, mức độ của nhu cầu được tư vấn hỗ trợ tâm lý học đường cho học sinh khi học sinh có khó khăn tâm lý. Các nghiên cứu này nói chung đều có thể được ứng dụng hiệu quả trong việc xây dựng các chương trình, kế hoạch chẩn đoán, phòng ngừa và can thiệp sớm trong học đường.
Hiện nay, Hiệp hội các nhà Tâm lý học đường Hoa Kỳ được xem như nguồn tham khảo và kiểu mẫu cho các chương trình tư vấn hỗ trợ tâm lý học đường của hầu hết các nước trên thế giới. ASCA hiện tại có hơn 23.000 hội viên trên toàn thế giới và là một phân hội của ACA với hơn 60.000 hội viên trên toàn thế giới. Các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ tâm lý học đường đã trở nên phổ biến và không thể thiếu được trong các trường học, các cơ sở đào tạo ở Anh, Pháp, Nga, Đức…. và nhiều quốc gia khác trên thế giới [45].
Như vậy, trên thế giới, cùng với bề dày phát triển của hoạt động tư vấn nói chung tư vấn, hỗ trợ tâm lý học đường nói riêng, các nghiên cứu theo ba khuynh hướng trên đã góp phần giúp các nhà quản lý ở các trường phổ thông, đại học có cơ sở để tìm các biện pháp tổ chức hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường cho học sinh, sinh viên một cách bài bản, khoa học và hiệu quả nhất.
1.1.2. Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, hỗ trợ tâm lý học đường vẫn còn là một lĩnh vực khá mới mẻ. Các hoạt động tư vấn, hỗ trợ tâm lý học đường cho học sinh, sinh viên còn chưa được đầu tư và quan tâm đúng mức.
Trước đây, trong thời gian chiếm đóng miền Nam Việt Nam, Mỹ đã cho triển khai các hoạt động Khải Đạo trong các trường học. Đến năm 1975, khi miền Nam được giải phóng, cách thức tiếp cận với giáo dục đã thay đổi làm cho hoạt động này không còn tồn tại trong các trường học với đúng nghĩa của nó nữa.
Năm 1984, trung tâm nghiên cứu tâm lý trẻ và tâm bệnh N-T do bác sĩ Nguyễn Khắc Viện thành lập đã trở thành nơi đầu tiên thực hành, phát triển nghề tư vấn trong đó có lĩnh vực tâm lý trẻ em và gia đình. Phương châm nghiên cứu của trung tâm là chiết trung, không suy tôn một trường phái nào, không lấy một học thuyết nào làm chính thống. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là nghiên cứu sâu từng trường hợp.
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, sự xuất hiện hàng loạt các vấn đề liên quan đến đạo đức, kỉ luật trường học, học sinh tự tử, áp lực thi cử, những rối loạn tâm lý, quan hệ thầy trò… tại các trường học Việt Nam đã khiến các nhà giáo dục, nhà tâm lý cùng những tổ chức và các cơ quan hữu trách bắt đầu đề cập đến việc phải có các hoạt động hỗ trợ tâm lý trong trường học.
Từ khoảng năm 2000, nhiều trường học tại TP HCM như trường Khánh Hội A - quận 4, Nguyễn Gia Thiều - quận Tân Bình, Diên Hồng - quận 10, Trường Công Định, Phú Mỹ - quận Bình Thạnh, Mạc Đĩnh Chi - quận 6 và rất nhiều các trường khác nữa… đã chủ động phối hợp với các chuyên viên tâm lý, các tổ chức trong và ngoài nước để triển khai các chương trình, tư vấn, hỗ trợ tâm lý học đường cho học sinh. Có thể kể tới một số trung tâm tư vấn, hỗ trợ như: Trung tâm Tư vấn “Tình yêu, Hôn nhân, Gia đình” (thuộc Hội Tâm lý giáo dục học thành phố Hồ Chí Minh); Trung tâm Tư vấn Hướng Dương (thuộc Liên đoàn Lao động thành phố Hồ Chí Minh). Sự xuất hiện của các dịch vụ tham vấn, trị liệu trực tiếp do Trung tâm Công tác xã hội thuộc Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam kết hợp với tiến sĩ tâm lý Trần Thị Giồng đã dần làm thay đổi tính chất của HĐTV: từ tư vấn cho lời khuyên chủ yếu bằng điện thoại chuyển sang tư vấn trực tiếp, tập trung sâu vào vấn đề tâm lý của