Đánh Giá Thực Trạng Về Công Tác Quản Lý Tài Chính Và Tổ Chức Công Tác Kế Toán Tại Các Csyt Công Lập Tỉnh Quảng Ngãi


Căn cứ vào đối tượng tham gia kiểm tra kế toán hiện nay tại các đơn vị có hai loại kiểm tra: Kiểm tra nội bộ và kiểm tra của các cơ quan chức năng có thẩm quyền (Sở Y tế tỉnh, KBNN, Thanh tra,…)

Kiểm tra nội bộ: Qua khảo sát thực tế tại các bệnh viện và trung tâm YTDP ở tỉnh Quảng Ngãi cho thấy các đơn vị chưa tổ chức bộ phận kiểm tra kế toán riêng. Việc kiểm tra kế toán chủ yếu do Kế toán trưởng và các kế toán viên thực hiện. Công tác kế toán thường tập trung vào những nội dung sau:

Một là: Kiểm tra việc thực hiện ghi chép, phản ánh trên các chứng từ kế toán, trên các sổ kế toán chi tiết, sổ kế toán tổng hợp và các báo cáo tài chính về đảm bảo chế độ kế toán; chế độ, chính sách quản lý tài sản và nguồn kinh phí tại đơn vị.

Hai là: Kiểm tra, đối chiếu giữa kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết trong quá trình tổng hợp số liệu, thông tin kế toán. Trong mỗi phần hành công việc, kế toán viên trực tiếp kiểm tra các chứng từ kế toán trước khi thực hiện các bước tiếp theo của quy trình luân chuyển chứng từ kế toán, sau đó thực hiện kiểm tra việc ghi sổ kế toán chi tiết mình quản lý.

Ba là: Kiểm tra chất lượng và hiệu quả tổ chức bộ máy kế toán, mối quan hệ giữa Phòng Tài chính Kế toán với các phòng, khoa, ban khác trong đơn vị.

Kiểm tra của các cơ quan chức năng có thẩm quyền: Công tác kiểm tra kế toán ở các bệnh viện công lập và trung tâm YTDP ở tỉnh Quảng Ngãi còn chịu sự kiểm tra của cơ quan chủ quản - Sở Y tế, cơ quan thanh tra tỉnh, cơ quan kiểm toán Nhà nước. Nội dung kiểm tra chủ yếu xoay quanh vấn đề kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về tài chính, kế toán.

2.2.7. Tổ chức bộ máy kế toán

Tổ chức bộ máy kế toán là một trong những nội dung quan trọng và quyết định sự thành công của tổ chức công tác kế toán ở các bệnh viện công lập và trung tâm YTDP. Qua khảo sát thực tế ở các bệnh viện công lập và trung tâm YTDP ở tỉnh Quảng Ngãi, Phòng Tài chính Kế toán có chức năng, nhiệm vụ như sau:

* Chức năng: Giúp Giám đốc thực hiện chức năng quản lý toàn bộ tài chính,


tài sản của đơn vị theo đúng quy định của pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về đảm bảo an toàn, tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả nguồn tài chính, tài sản được giao.

* Nhiệm vụ:

- Xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ, xây dựng kế hoạch tài chính hàng năm, ngắn hạn và dài hạn.

- Lập dự toán thu, chi hàng năm, chủ trì phối hợp với các đơn vị liên quan lập kế hoạch ngân sách trình Sở Y tế phê duyệt.

- Thực hiện quản lý thu, chi các nguồn kinh phí, chấp hành dự toán thu, chi.

- Thực hiện chi tiêu theo quy chế chi tiêu nội bộ và qui định của nhà nước, chủ động đề xuất điều chỉnh, bổ sung các định mức, tiêu chuẩn trong quy chế chi tiêu nội bộ cho phù hợp với điều kiện thực tế và nguồn thu tài chính hàng năm.

- Phối hợp, quản lý theo dõi toàn bộ tài sản như mua sắm, sử dụng, kiểm kê, thanh lý…

- Thực hiện lập, gửi báo cáo tài chính theo quy định.

- Cung cấp đầy đủ, kịp thời số liệu, tài liệu và các thông tin liên quan đến quản lý tài chính của đơn vị theo yêu cầu của Ban Giám đốc, của Sở Y tế…

- Lưu giữ, bảo quản tài liệu kế toán theo đúng quy định của Luật Kế toán.

Để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ như trên, các bệnh viện công lập và trung tâm YTDP của tỉnh Quảng Ngãi đã tổ chức một bộ máy kế toán với sự tập hợp đồng bộ các cán bộ nhân viên kế toán để đảm bảo thực hiện đầy đủ các chức năng thông tin và kiểm tra hoạt động của đơn vị.

Do các bệnh viện công lập và trung tâm YTDP ở tỉnh Quảng Ngãi đều

không có các đơn vị trực thuộc, đặc điểm của đa số các bệnh viện công lập và trung tâm YTDP ở tỉnh Quảng Ngãi (trừ các bệnh viện lớn như Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Bệnh viện Đa khoa thành phố) có quy mô không lớn, cơ cấu tổ chức đơn giản gọn nhẹ nên bộ máy kế toán cũng rất đơn giản. Bộ máy kế toán ở các đơn vị được tổ chức theo mô hình tập trung. Với mô hình này, mỗi đơn vị chỉ tổ chức một Phòng Tài chính Kế toán chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện toàn bộ


công tác tài chính, kế toán của đơn vị.

Qua khảo sát thực tế cho thấy, số lượng nhân viên kế toán ở mỗi đơn vị

khác nhau. Thông thường bộ

máy kế

toán của các bệnh viện và trung tâm dự

phòng ở tỉnh giao động từ 4 đến 35 nhân viên với trình độ chuyên môn khác nhau, thể hiện qua bảng 2.3 như sau:

Bảng 2.3:

Số lượng nhân viên kế toán theo trình độ ở một số bệnh viện công lập và trung tâm YTDP ở tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2012


Bệnh viện

Tổng số nhân viên kế toán

Phân chia theo trình độ

Trung cấp

Cao đẳng

Đại học

Sau đại học

Bệnh viện Đa khoa tỉnh

35

11

7

16

1

Bệnh viện Đa khoa Thành phố

06

1

3

2

0

Bệnh viện Đa khoa Mộ Đức

10

6

2

2

0

Trung tâm Y tế huyện Sơn Hà

07

0

5

2

0

BV Đa khoa Đặng Thùy Trâm

10

4

3

3

0

Trung tâm YTDP tỉnh

05

1

0

4

0

TT YTDP Thành phố

03

1

1

1

0

TT YTDP Sơn Tịnh

04

1

0

3

0

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 284 trang tài liệu này.

Tổ chức công tác kế toán tại các cơ sở y tế công lập tỉnh Quảng Ngãi - 18


Căn cứ vào khối lượng công việc kế toán và trình độ của nhân viên kế toán, Kế toán trưởng phân công cho mỗi nhân viên kế toán đảm nhiệm các phần hành kế toán cụ thể. Mỗi nhân viên có thể đảm nhiệm một hoặc một số phần hành kế toán. Kết quả khảo sát cho thấy, bộ máy kế toán của các bệnh viện công lập và trung tâm YTDP ở tỉnh Quảng Ngãi thường tổ chức như sau :

- Đối với các trung tâm YTDP, bộ máy kế toán bao gồm Kế toán trưởng và các kế toán viên, Thủ quỹ. Kế toán trưởng có nhiệm vụ điều hành bộ máy kế toán, chỉ đạo công tác lập dự toán, quyết toán kinh phí, đề xuất với Thủ trưởng đơn vị về công tác tài chính, phân tích tình hình tài chính của đơn vị. Các kế toán viên theo dõi từng phần hành kế toán, lập, tập hợp chứng từ, ghi sổ kế toán các


nghiệp vụ kinh tế phát sinh liên quan đến phần hành kế toán được giao phụ trách. Thủ quỹ chịu trách nhiệm thu, chi tiền mặt và ghi sổ quỹ.

- Đối với các bệnh viện công lập, bộ máy kế toán được tổ chức gồm bộ phận kế toán thu phí, bộ phận kế toán BHYT và bộ phận kế toán tổng hợp. Bộ phận kế toán thu phí chịu trách nhiệm theo dõi toàn bộ các khoản thu viện phí, cuối tháng tổng hợp số thu viện phí lập sổ tổng hợp các khoản thu gửi về bộ phận kế toán tổng hợp. Bộ phận kế toán BHYT theo dõi các khoản thanh toán với bệnh nhân có thẻ BHYT và làm thủ tục quyết toán toàn bộ các khoản thanh toán với cơ quan BHYT tỉnh, cuối kỳ tổng hợp số liệu lập báo cáo gửi về bộ phận kế toán tổng hợp. Bộ phận kế toán tổng hợp được tổ chức gồm Kế toán trưởng, các kế toán viên và Thủ quỹ.

Kế toán trưởng ở các bệnh viện công lập và trung tâm YTDP ở tỉnh Quảng Ngãi hầu hết đã được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ tài chính, kế toán và có trình độ chuyên môn từ bậc cao đẳng tài chính kế toán trở lên, được tuyển dụng trong biên chế của đơn vị không phải thuê ngoài.

2.2.8. Tổ chức ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác kế toán

Từ đầu những năm 90 của thế kỷ 20 tại Việt Nam nói chung và tỉnh Quảng Ngãi nói riêng chỉ mới xuất hiện phần mềm kế toán có tính chất sơ khai, tự phát và chỉ đáp ứng được phần nhỏ công việc kế toán. Việc ghi chép và lập báo cáo tài chính chủ yếu theo phương pháp thủ công.

Việc ứng dụng CNTT vào công tác quản lý tài chính, kế toán tại các bệnh viện công lập và trung tâm YTDP ở tỉnh Quảng Ngãi mới được thực hiện trong những năm gần đây. Hiện nay, các bệnh viện công lập và trung tâm YTDP ở tỉnh Quảng Ngãi đã ứng dụng CNTT trong quản lý bệnh viện nhưng chỉ mới thực hiện được từng phần riêng lẻ như quản lý tài chính kế toán (phần mềm kế toán HCSN), viện phí (phần mềm viện phí), quản lý kho dược, BHYT (phần mềm của cơ quan BHXH),... Qua khảo sát thực tế cho thấy, hầu hết các bệnh viện công lập và trung tâm YTDP ở tỉnh Quảng Ngãi đã mua lại một số chương trình phần mềm của các


công ty phần mềm vi tính trong tỉnh. Các công ty được thuê viết phần mềm này hầu như không hiểu chuyên môn hoặc thu thập thông tin đầu vào thiếu, nên khi

ứng dụng không đạt hiệu quả cao. Vì thế, các phần mềm quản lý này đều có

nhược điểm là khả năng nâng cấp, tính mở trong phần mềm rất hạn chế nên ngày càng trở nên lạc hậu trước yêu cầu thay đổi liên tục của các chính sách, chế độ kế toán mới. Ngoài ra, các phần mềm này vẫn chưa thực hiện được trong môi trường kết nối mạng LAN cũng như mạng WAN, mà chỉ được thực hiện trên các máy tính đơn lẻ. Các kế toán phần hành chỉ thực hiện được công việc kế toán một cách đơn lẻ, việc nhập dữ liệu kế toán được thực hiện tập trung vào một hoặc một vài bộ phận. Do đó, việc lựa chọn giải pháp quản lý bệnh viện hiện đại trở nên khó khăn khi sử dụng hay khi nâng cấp, mở rộng hệ thống.

2.3. Đánh giá thực trạng về công tác quản lý tài chính và tổ chức công tác kế toán tại các CSYT công lập tỉnh Quảng Ngãi

2.3.1. Đánh giá thực trạng về công tác quản lý tài chính tại các CSYT công lập tỉnh Quảng Ngãi

Từ năm 2007 đến nay, các bệnh viện công lập và các trung tâm YTDP của tỉnh Quảng Ngãi đã có sự chuyển đổi mạnh mẽ về cơ chế tài chính qua việc triển

khai thực hiện các chủ trương “xã hội hóa” và giao quyền tự chủ tài chính. Quá

trình chuyển đổi này bước đầu đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Đó là:

Quyền hạn và trách nhiệm của lãnh đạo đơn vị được nâng cao: Lãnh đạo đơn vị năng động hơn, mạnh dạn, dám nghĩ dám làm tự chịu trách nhiệm trong các hoạt động của đơn vị với động cơ tăng nguồn thu tài chính và tăng thu nhập cho cán bộ viên chức.

Về tổ chức nhân sự có thay đổi tích cực: Có sự gia tăng nguồn nhân lực

đáng kể trong các bệnh viện công lập và trung tâm YTDP của tỉnh Quảng Ngãi, đặc biệt là cán bộ hợp đồng. Nhưng bước đầu có sự điều chuyển, bố trí sắp xếp vị trí cán bộ giữa các khoa, phòng nhằm phát huy tối đa khả năng nguồn lực hiện có của đơn vị. Đồng thời các đơn vị cũng chú trọng hơn trong công tác đào tạo cán


bộ như cử cán bộ đi học nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ trong nước và ngoài nước; đào tạo vận hành các thiết bị máy móc kỹ thuật mới; công tác đào tạo kỹ năng quản lý bệnh viện và kinh tế bắt đầu được quan tâm.

Sử dụng các nguồn lực tài chính đã bước đầu có hiệu quả: Do được giao quyền chủ động trong việc sử dụng NSNN ổn định trong 3 năm và các nguồn thu nên các đơn vị đã chủ động sử dụng các nguồn tài chính cho hoạt động chuyên môn, bố trí hợp lý các khoản chi trong dự toán ngân sách được giao và trong các khoản thu, tránh được việc thừa, thiếu kinh phí giữa các mục/nhóm mục chi. Số kinh phí chưa sử dụng, chưa quyết toán được quyền chuyển sang năm sau nên đã khuyến khích các đơn vị sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài chính của đơn vị mình. Các đơn vị đã chủ động tiết kiệm chi, cắt giảm những khoản chi bất hợp lý phù hợp với khả năng ngân sách và thực tế thu tại đơn vị. Do vậy, hầu hết các đơn vị tự chủ có tỷ trọng chi hành chính phí có xu hướng giảm đi và chi cho hoạt động chuyên môn nghiệp vụ, chi mua sắm, sửa chữa có xu hướng tăng lên. Cơ cấu

chi cho con người và phần lương tăng thêm có xu hướng tăng lên ở bệnh viện

công lập và trung tâm YTDP, đặc biệt là các đơn vị có nguồn thu lớn. Về đầu tư và sử dụng tài sản vật tư của đơn vị: Việc cho phép các đơn vị mở rộng đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất và trang thiết bị đã tạo ra cho các đơn vị khá chủ động và mạnh dạn trong việc đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị. Ngoài ra, các bệnh viện công lập và trung tâm YTDP của tỉnh Quảng Ngãi đều đã tổ chức thảo luận công khai và ban hành quy chế chi tiêu nội bộ cũng như áp dụng các giải pháp tích cực để tiết kiệm các khoản chi không cần thiết.

Thu nhập của viên chức đã cải thiện: Cơ chế trả lương và thu nhập tăng thêm đã bước đầu chú ý đến hiệu suất công việc và trình độ năng lực của cán bộ. Tuy vậy, thực tế đã cho thấy các bệnh viện công lập và trung tâm YTDP khác nhau thì mức thu nhập tăng thêm này cũng khác nhau nên sẽ dẫn đến sự mất cân bằng trong phân bổ thu nhập giữa các đơn vị với nhau.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, cơ chế quản lý tài chính ở các bệnh


viện công lập và trung tâm YTDP của tỉnh Quảng Ngãi vẫn còn nhiều tồn tại và

bất cập.

Việc phân bổ kinh phí hoạt động thường xuyên

ở các đơn vị này còn

mang tính cào bằng, chưa thực sự gắn kết giữa giao nhiệm vụ và giao kinh phí. Thu nhập của người lao động giữa các bệnh viện công lập và trung tâm YTDP, các đơn vị có thu nhập cao thường nằm chủ yếu ở thành phố và các huyện đồng bằng vì có nguồn thu viện phí lớn; ngược lại, có rất nhiều đơn vị thu nhập thấp do cơ chế, chính sách không cho phép thu hoặc đóng tại các huyện miền núi khó khăn.

Hiện nay NSNN phân bổ cho các bệnh viện công lập của tỉnh chủ yếu dựa trên xếp hạng bệnh viện và quy mô giường bệnh. Hình thức phân bổ NSNN cho các bệnh viện công lập mang tính chất bình quân đã được thực hiện từ rất lâu và vẫn tiếp tục được thực hiện cho đến ngày nay. Sự bất hợp lý rất lớn nằm ở chỗ là việc phân bổ kinh phí đơn thuần dựa vào các chỉ số mang tính hành chính mà không dựa vào các chỉ số hoạt động của bệnh viện. Như vậy sẽ có tình trạng là có những bệnh viện công lập hoạt động tốt, thu hút đông người bệnh cũng chỉ được phân bổ kinh phí tương đương với bệnh viện hoạt động yếu, ít bệnh nhân nếu cùng số giường và đồng hạng. Chính cơ chế phân bổ tài chính bất hợp lý như vậy đã dẫn đến hàng loạt những hệ quả khác như có những bệnh viện công lập chú trọng vào việc tăng số giường bệnh hơn là chú trọng phát triển chuyên môn, bởi vì phát triển chuyên môn thì khó được tăng ngân sách hơn là tăng số giường bệnh.

Hơn nữa, hình thức NSNN phân bổ cho các bệnh viện công lập có bất hợp lý khác là hiện tượng “bao cấp ngược”. Hiện nay bệnh viện công lập tuyến cao nhất nhận được nhiều kinh phí nhất tính theo số giường bệnh và bệnh viện công lập tuyến thấp hơn nhận được ít kinh phí hơn. Việc phân bổ như vậy cơ bản là hợp lý do tuyến trên điều trị các ca bệnh phức tạp hơn, đòi hỏi trang thiết bị, con người… cao hơn tuyến dưới. Tuy nhiên, nếu xét về khả năng tiếp cận thì tỷ lệ người nghèo được sử dụng các dịch vụ y tế tuyến trên so với người giàu thấp hơn

rất nhiều. Do vậy, việc phân bổ này ngầm chứa nghịch lý “bao cấp ngược”:


NSNN phân bổ nhiều hơn, hỗ trợ nhiều hơn cho các đối tượng thu nhập cao hơn.

Việc NSNN cấp cho các bệnh viện tuyến huyện hạn chế cũng chưa thực sự

khuyến khích người dân sử dụng dịch vụ bệnh viện ở tuyến dưới. Thực trạng này đòi hỏi nhu cầu đổi mới và cần có các cơ chế phân bổ tài chính hợp lý hơn cho các bệnh viện, làm thế nào để việc phân bổ kinh phí dựa trên hoạt động thực chất của bệnh viện, khuyến khích người dân sử dụng các dịch vụ y tế tuyến dưới và tránh hiện tượng “bao cấp ngược” cho người giàu.

Bên cạnh đó, việc phân bổ tài chính cho YTDP hiện nay đang có nhiều

vướng mắc. Nguồn kinh phí khoán còn thấp và việc khoán kinh phí bình quân theo biên chế chưa phù hợp với đặc thù của công tác YTDP, vì đây là lĩnh vực đi công tác lưu động thường xuyên, tập huấn nâng cao kỹ năng, hội nghị, sơ tổng kết nhiều hoạt động khác nhau… Định mức phân bổ cho YTDP thấp và được quy định ổn định trong thời gian dài (thường 3-5 năm) nên khi có sự điều chỉnh mức lương tối thiểu, khi chưa được cấp bù phần tiền lương, thì các đơn vị không còn kinh phí hoạt động cho phòng, chống dịch và các hoạt động về sức khoẻ trường học, sức khoẻ nghề nghiệp, sức khoẻ môi trường. Mặt khác, mức kinh phí hoạt động hiện nay đang được các địa phương áp dụng mỗi nơi một khác, phụ thuộc vào điều kiện ngân sách địa phương và tùy theo sự quan tâm của các cấp có thẩm quyền địa phương với ngành YTDP, nhưng nhìn chung, mức kinh phí của tỉnh Quảng Ngãi cấp cho YTDP cũng mới chỉ đáp ứng được 50% - 60% nhu cầu hoạt động. Bên cạnh đó, việc phân bổ chi thường xuyên tuyến tỉnh theo biên chế, chưa tính đến chức năng, nhiệm vụ như giám sát, cảnh báo phòng, chống dịch bệnh…, phân bổ theo kết quả đầu ra để đảm bảo ngân sách tối thiểu cho công tác YTDP.

Ngoài ra, hiện nay Nhà nước cũng chưa có văn bản hướng dẫn, quy định cụ thể về định mức phân bổ cho phòng bệnh, hoặc dành tỷ lệ tối thiểu cho phòng bệnh. Trong khi đó, định mức phân bổ cho phòng bệnh còn thấp. Các khoản chi cho con người như chi lương, phụ cấp và các khoản đóng góp theo lương còn

chiếm tỷ trọng cao trong tổng chi của mỗi đơn vị làm ảnh hưởng đến các nội

Xem tất cả 284 trang.

Ngày đăng: 01/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí