Khái Quát Tín Ngưỡng, Lễ Hội Ở Nam Bộ

Tho, Biên Hòa và Sài Gòn để khai khẩn, định cư. Năm 1680, Mạc Cửu và những người Hoa tuỳ tùng đến Chân Lạp, chiêu tập lưu dân lập ra bảy thôn xã từ Vũng Thơm đến Cà Mau, đến năm 1708 cũng xin thần phục chúa Nguyễn. Từ giữa thế kỷ XIX, sau cuộc chiến tranh Nha phiến và cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên quốc, đông đảo người Hoa từ các địa phương ở Trung Quốc lại tiếp tục di dân đến Việt Nam sinh sống. Người Chăm ở Nam Bộ di dân từ người Chăm Chân Lạp. Năm 1756, họ bị người Chân Lạp đuổi đánh, chúa Nguyễn đưa họ đến định cư ở Châu Đốc (An Giang), Tây Ninh. Về sau, người Chăm Châu Đốc di dân đến các nơi khác ở Nam Bộ định cư. Năm 1698, chúa Nguyễn sai Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý phương nam. Từ những lưu dân Việt ở Đồng Nai, Gia Định, Nguyễn Hữu Cảnh đã lập phủ Gia Định, gồm hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn. Đến năm 1779, địa giới của Gia Định bao trùm toàn vùng Nam Bộ như hiện nay. Kể từ đó, vùng đất này đã nhiều lần đổi tên gọi, từ năm 1945 đến nay được gọi tên thống nhất là Nam Bộ (34, 2006, tr.95)

Tóm lại, đến thế kỷ XVI, hầu hết đất đai Nam Bộ đều hoang hóa, cư dân còn thưa thớt. Đầu thế kỷ XVII, lưu dân người Việt ở vùng đất Thuận - Quảng đến Mô Xoài (Bà Rịa), Đồng Nai khai khẩn đất hoang, lập ra những làng người Việt đầu tiên trên vùng đất Nam Bộ. Trong thời kỳ này, vùng đất Nam Bộ đã trở thành nơi tranh chấp ảnh hưởng và quyền bính giữa hai thế lực của Vương triều Chân Lạp và Chúa Nguyễn, trong đó vai trò của Chân Lạp ngày càng lu mờ, còn vai trò của Chúa Nguyễn thì ngày càng được khẳng định, mở rộng và củng cố. Trên vùng đất mới, Chúa Nguyễn đã thi hành chính sách khuyến khích đặc biệt đối với việc khai phá đất hoang, cho phép người dân biến ruộng đất khai hoang được thành sở hữu tư nhân. Các lưu dân người Việt, người Khmer, người Hoa, người Chăm tiếp nối nhau đến Nam Bộ để khai khẩn, định cư, canh tác, buôn bán... dần dần biến vùng đất hoang vu trở nên trù phú. Từ đó, nền văn hóa Nam Bộ hình thành, là kết quả của sự dung hợp của các tộc người cộng cư, sinh sống, trong đó, văn hóa Việt là nền tảng, giao lưu, tiếp biến từ văn hóa Khmer, Hoa, Chăm... và cả phương Tây sau này.

1.3.3 Chủ thể văn hóa vùng Nam Bộ

Hiện nay, Nam Bộ là nơi cư trú của người Việt và các tộc người thiểu số là cư dân bản địa: Stiêng, Mạ, Chrau cùng các tộc người: Hoa, Chăm, Khmer, Tày, Nùng, Mường...di dân đến vùng đất mới, cộng cư cùng người Việt làm nên văn hóa vùng Nam Bộ. Các tộc người thiểu số bản địa sống chủ yếu ở cuối dãy Trường Sơn chạy về phía

nam, đông nhất là người Stiêng, khoảng 70 ngàn người, người Chrau, người Mạ khoảng 20 đến hơn 30 ngàn người. Đây là cư dân bản địa, làm nương rẫy, đã có mặt từ trước khi người Việt bắt đầu khai phá vùng đất này ở thế kỷ XVII. Người Khmer cư trú nhiều ở Sóc Trăng, Trà Vinh, rải rác ở các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Tây Ninh... hơn 1,2 triệu người. Người Hoa sống chủ yếu ở Tp. Hồ Chí Minh và ở khắp Nam Bộ. Người Chăm cư trú chủ yếu ở An Giang, ở miền Đông Nam Bộ và rải rác các tỉnh thành Nam Bộ. Do vậy, Nam Bộ là vùng đất đa tộc người, trong đó, dân tộc Việt có hơn 90% dân số của vùng. Người Khmer là một tộc người đông dân, xếp thứ năm trong 54 tộc người ở Việt Nam; người Hoa cũng là một tộc người thiểu số đông dân; người Chăm là tộc người xếp thứ 14 về dân số trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Người Khmer, người Hoa, người Chăm có trình độ kinh tế xã hội phát triển. Nhìn đại thể, bức tranh văn hóa tộc người ở Tây Nam Bộ mang những đặc điểm về lịch sử cư trú, văn hóa xã hội như sau:

Người Việt ở Nam Bộ đã đến làm ăn sinh sống ở Mô Xoài (Bà Rịa - Vũng Tàu) vào đầu thế kỷ XVII. Các kết quả nghiên cứu lịch sử đã chỉ ra rằng có những thương nhân, nhà phú hộ đã xuất tài vật vào Nam buôn bán, chiêu tập lưu dân khẩn hoang lập ấp, từng bước biến Nam Bộ thành những vùng sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp, thủ công nghiệp và hình thành nền kinh tế hàng hoá ngay từ buổi đầu. Việc khai phá Nam Bộ thường xuyên được các đời chúa Nguyễn khuyến khích, bằng những chính sách hữu hiệu như viện trợ cho Chân Lạp chống Xiêm để đổi lấy đất đai, phong quan chức cho những phú hộ chiêu mộ được lưu dân, tư nhân được tự do lập phường nghề, lập chợ, chuyển lính đồn trú thành lính đồn điền để bảo vệ dân chúng và thúc đẩy khai hoang. Nhưng quá trình khai phá Nam Bộ còn được thúc đẩy nhanh bởi vốn văn hoá của người Việt đã được thử thách trên dải đất miền Trung. Vốn văn hoá ấy đã tìm được vùng đất mới ở Nam Bộ, nơi có đồng bằng châu thổ, vùng biển rộng lớn và trù phú nhất Việt Nam. Môi trường văn hoá mới đã kích thích sự năng động và đổi mới của lưu dân người Việt trong quá trình thích nghi, lựa chọn, tiếp biến và sáng tạo văn hoá ở vùng đất này. Người Việt hoạt động chủ yếu về sản xuất nông nghiệp, các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, thủy sản. Trong dân gian còn lưu truyền câu ăn mặn nói ngay để nói tính cách của người Việt Nam Bộ, vì họ luôn chân tình, cởi mở và dễ hoà đồng. Tính sông nước, tính bao dung, năng động, trọng nghĩa tình, hiếu khách là nét đặc trưng tính cách của người Nam Bộ. Hơn ba thế kỷ khai khẩn vùng hạ lưu châu thổ Mekong,

cộng đồng người Việt ngày thêm đông đúc, hiện diện hầu như khắp đồng bằng cho đến biên giới, hải đảo. Làng xóm được lập khắp nơi, song song đó là sự phát triển của những phố thị, trung tâm thương mại - dịch vụ. Cùng với những thành tựu kinh tế, chinh phục thiên nhiên, cộng đồng cư dân người Việt còn tạo nên một đời sống văn hóa phong phú vừa thống nhất trong cả nước, vừa có những nét riêng của Nam Bộ. Đình là trung tâm sinh hoạt văn hóa truyền thống của cư dân người Việt. Ngày nay, chức năng này chuyển dần cho các nhà sinh hoạt cộng đồng, các trung tâm văn hóa.

Người Khmer sống xen kẽ với người Việt, Hoa trong các phum, sóc. Nhà của người Khmer hầu hết là nền đất, lợp lá, một số lợp ngói không khác gì nhà của người Việt. Nhiều nhà thành một phum. Sóc gồm nhiều phum tương đương như làng xã của người Việt. Sự vận hành của sóc dựa trên tập quán truyền thống và những định chế của Phật giáo, bởi lẽ, hầu hết người Khmer Nam Bộ chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo Theravada (Phật giáo tiểu thừa hay Phật giáo Nam tông), bên cạnh bộ máy tự quản phum, sóc còn có hệ thống tổ chức nhà chùa. Đứng đầu mỗi chùa có một vị sư cả (lục gru) là người trụ trì ngôi chùa, vị lãnh đạo tôn giáo cao nhất của một hoặc vài sóc. Trong tâm thức người Khmer, sư cả được coi là đại diện cho đức Phật, những lời giáo huấn của ông được nhân dân tôn trọng và thực thi một cách nghiêm túc. Thanh niên trước khi trưởng thành thường đến chùa tu học để trau dồi đức hạnh và kiến thức. Về trang phục, do có sự cộng cư lâu đời với người Việt, Hoa, Chăm nên trang phục của người Khmer có nhiều biến đổi, song người Khmer Nam Bộ vẫn gìn giữ trang phục truyền thống, thể hiện rò bản sắc của dân tộc mình qua các dịp lễ hội. Hoạt động kinh tế của người Khmer chủ yếu là nông nghiệp, một số làm nghề tiểu thủ công nghiệp và mua bán nhỏ. Các ngày lễ lớn trong năm là lễ Chol Chnam Thmay (năm mới), Sel Dolta (Xá tội vong nhân), lễ hội Ok-Om-Bok (cúng trăng). Trong quá trình định cư, các phum của người Khmer vùng đồng bằng sông Cửu Long đã hòa nhập với làng xóm của người Kinh và người Hoa, tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy mạnh mẽ quá trình giao lưu văn hóa, đoàn kết, gắn bó, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc.

Hơn 900.000 người Hoa sinh sống ở Việt Nam (số liệu năm 2018), phần lớn là cư trú ở Nam Bộ, riêng thành phố Hồ Chí Minh có đến 400.000 người. Họ thuộc Ngũ bang vùng Hoa Nam: Quảng Đông, Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam và Hẹ; làm nhiều nghề khác nhau: công nghiệp, nông nghiệp, thủ công nghiệp, công nhân, viên chức, buôn bán..., nổi tiếng về các nghề gia truyền. Ở miền Nam từng có một thời, các tiệm chạp

phô của người Hoa hiện diện ở khắp nơi. Họ bán rất nhiều loại hàng hoá: từ cây kim, sợi chỉ cho đến tương, chao, xà bông...Vào nhà người Hoa, đập ngay vào mắt mọi người là những bàn thờ ngoài sân, trong nhà, trên cao, dưới đất. Ngoài việc thờ cúng tổ tiên, gia đình người Hoa còn thờ nhiều vị thần bảo trợ: Thần tài phù hộ làm ăn, Thổ địa quản lí đất đai, Táo quân ghi chép mọi việc để báo cáo với Ngọc Hoàng. Dân tộc Hoa sống rất thực tế. Họ chỉ muốn tất cả các mối quan hệ giữa họ với tất cả mọi người cũng như giữa họ với thần linh đều hữu hảo để họ có thể dễ bề làm ăn. Họ thờ cúng người chết tại nhà. Trong thôn xóm đều có chùa, đền, miếu để thờ cúng. Hôn nhân của con do cha mẹ quyết định trên cơ sở tương đồng về hoàn cảnh kinh tế và địa vị xã hội. Việc ma chay phải qua rất nhiều thủ tục nghiêm ngặt. Cộng đồng người Hoa có trình độ tổ chức xã hội cao và truyền thống văn hóa lâu đời. Các Bang, Hội được tổ chức chặt chẽ, đa dạng bên cạnh hệ thống cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật như trường học, bệnh viện, hội quán...

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 280 trang tài liệu này.

Ngoài ra, hiện nay, ở Nam Bộ có khoảng 37000 người Chăm tập trung chủ yếu ở An Giang, Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh và miền cực Đông Nam Bộ. Ngôn ngữ chính thuộc hệ Mã Lai - Đa Đảo. Hầu hết người Chăm theo đạo Hồi (nhóm Bà Ni và nhóm Ixlam) và đạo Bà La Môn (chiếm 3/5 dân số) tuy nhiên, do ảnh hưởng của tôn giáo, lịch sử nên người Chăm ít có giao lưu với các tộc người khác cùng cộng cư trên địa bàn về mặt tâm linh, tín ngưỡng nên không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận án này.

Trong quá trình giao lưu với văn hóa của các tộc người khác, Nam Bộ đã hình thành nên những đặc điểm riêng mang tính chất vùng khá rò. Nam Bộ cũng là vùng đất đa tộc người, trong đó, chủ thể văn hóa chính là người Việt. Riêng ở Tây Nam Bộ, chủ thể văn hóa chính bên cạnh người Việt còn có người Khmer, người Hoa. Ngoài ra, trong văn hoá Nam Bộ còn có những yếu tố Chăm. Nhưng đó là do người Việt đã tiếp thu từ văn hoá Chăm ở Nam Trung Bộ. Còn bản thân người Chăm Nam Bộ thì do dân số ít và sinh hoạt khép kín nên không tác động đáng kể vào văn hoá Việt trong vùng. Hơn ba thế kỷ qua, các dân tộc cộng cư ở Nam Bộ đã khẳng định được sức sống mãnh liệt trên vùng đất mới, đoàn kết, giúp đỡ nhau trong cuộc sống, kiến tạo nên những nét văn hóa mới góp phần gìn giữ, phát triển văn hóa dân tộc.

Tín ngưỡng thờ anh hùng Nguyễn Trung Trực trong đời sống văn hóa cư dân Nam Bộ - 7

1.3.4 Khái quát tín ngưỡng, lễ hội ở Nam Bộ

Là vùng đất đa tộc người, Nam Bộ có tín ngưỡng tôn giáo phong phú ở Việt Nam. Vùng đất này là nơi gặp gỡ các tín ngưỡng, tôn giáo có sẵn từ Bắc Bộ, Trung Bộ khi người Việt di dân vào, đồng thời, nơi đây sản sinh những tín ngưỡng tôn giáo mới. Khi vào đến

Nam Bộ, vùng đồng bằng rộng lớn, người Việt không khỏi ngỡ ngàng trước không gian mênh mông của vùng đất mới, vì trước đó, trong hàng thế kỷ, tầm nhìn của họ đã bị khép chặt trên những cánh đồng duyên hải chật hẹp. Trong quá trình khai phá đất phương Nam, người Việt vượt qua khó khăn tự tạo cho mình bản lĩnh trong cuộc sống, dám nghĩ dám làm, một mặt tiếp tục phát huy văn hóa truyền thống, mặt khác không câu nệ tập tục. Do cuộc sống tương đối dễ dàng hơn rất nhiều so với cuộc sống ở vùng đất cũ, tâm lý của người dân cũng dần thay đổi. Họ trở nên rộng rãi, phóng khoáng hơn. Bên cạnh đó, trong cuộc khai khẩn, đấu tranh gian khổ với thiên nhiên, người dân luôn luôn cần có bè bạn để giúp đỡ vượt qua khó khăn. Nhu cầu sinh tồn đó dần hình thành tính nghĩa hiệp, sẵn sàng giúp đỡ những người chẳng may lâm nạn với tinh thần cao thượng, làm việc nghĩa một cách vô điều kiện nhớ câu kiến nghĩa bất vi; Làm người thế ấy cũng phi anh hùng (Nguyễn Đình Chiểu). Quá trình khai phá vùng đất mới, người Việt đã tiếp cận với các nền văn hóa Khmer, Hoa, Chăm, văn hóa tại chỗ; các yếu tố tích cực của văn hóa các tộc người đã đóng góp tích cực vào văn hóa nói chung, tín ngưỡng Nam Bộ nói riêng.

Tín ngưỡng Nam Bộ phản ánh những đặc trưng của nền nông nghiệp lúa nước. Người dân tiếp nhận cởi mở thần linh của các dân tộc mà họ đã giao lưu trên đường Nam tiến. Từ những điều kiện lịch sử - địa lý, giao lưu với các tộc người ở vùng đất mới, tín ngưỡng Nam Bộ chịu ảnh hưởng bởi thiên thần, nhiên thần, nhân thần. Tuy nhiên, hệ thống thần linh của Nam Bộ so với Bắc Bộ có số lượng không nhiều, chủ yếu gắn bó với các giai đoạn lịch sử từ thời các Chúa Nguyễn về sau. Về thiên thần, những vị thần thờ phụng ở lưu vực sông Hồng ít thấy ở tín ngưỡng Nam Bộ, các văn hóa Khmer, Hoa, Chăm được chấp nhận và đưa vào hệ thống thần linh ở Nam Bộ, như Thánh mẫu Po Nagar dưới tên gọi là Thiên Y A Na, bà Chúa Ngọc, Chúa Tiên. Hiện tượng này còn được thấy ở Đông Nam Bộ như Bà Đen, ở Tây Nam Bộ như Bà Chúa Xứ. Nhiên thần là tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, trong đó có Thổ Thần (Thổ Địa), Thần Hổ, Thần Cá Voi. Khác với Thành Hoàng có nguồn gốc nhân thần ở miền Bắc, miền Trung, Thành Hoàng Bổn Cảnh ở Nam Bộ là nhiên thần, chỉ có danh hiệu chứ không có lý lịch, thần tích, và chỉ một phần trong số đó có sắc phong thần của triều đình với tên gọi chung là Thành Hoàng Bổn Cảnh. Nhân thần là tín ngưỡng sùng bái con người. Đó là những người có công khai phá Nam Bộ, như Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu); những khai quốc công thần, như Lê Văn Duyệt, Nguyễn Huỳnh Đức; thờ

các vị anh hùng kháng Pháp, như Trương Định, Thiên Hộ Dương, Nguyễn Trung Trực. Người Hoa đóng góp vào tín ngưỡng Nam Bộ thờ Quan Công (thờ Ông) tượng trưng cho trung nghĩa can trường, thờ Thiên Hậu (thờ Bà) bảo trợ ngư phủ, người đi biển…

Về tôn giáo, trong đời sống văn hóa tâm linh, người Việt ở Nam Bộ kế thừa, phát huy những tôn giáo đã du nhập vào Việt Nam như Phật giáo, Hồi giáo, Công giáo,… Mặt khác, từ nửa cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, vùng này đã hình thành tôn giáo Việt: Bửu Sơn Kỳ Hương, Cao Đài, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Hòa Hảo,…góp phần tạo nên bản sắc văn hóa Nam Bộ. Bửu Sơn Kỳ Hương là một giáo phái có ảnh hưởng lớn đến lịch sử và chính trị ở Nam Bộ vào thế kỷ XIX được ông Đoàn Minh Huyên khai sáng năm 1849. Về sau, ông đến tu tại chùa Tây An (núi Sam, Châu Đốc, An Giang) được người dân tôn kính là Phật Thầy Tây An, lấy Thất Sơn là nơi xuất phát để tỏa sáng năm châu bốn biển. Ðạo Bửu Sơn Kỳ Hương lấy tứ đại trọng ân làm nền tảng. Bốn ân lớn là: Ân tổ tiên, cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo, ân đồng bào, nhân loại. Bửu Sơn Kỳ Hương khuyên mọi người học Phật tu nhân, tích đức. Ðạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa do ông Ngô Lợi (Đức Bổn sư) sáng lập năm 1876. Về giáo lý, Đức Bổn sư tiếp tục hoằng pháp của Bửu Sơn Kỳ Hương là Tứ đại trọng ân, Học Phật - Tu Nhân nhưng không ly gia cắt ái. Tín đồ mặc áo vạt hò, quần lá nem, bới tóc hoặc để xòa tự nhiên và tu đâu cũng được, ít quan tâm đến giáo lý mà chú tâm nhiều đến việc thờ cúng, bố thí. Buổi đầu, đạo là một trong những phong trào Cần Vương nhưng dùng hình thức tôn giáo để qui tập tín đồ, che mắt thực dân Pháp. Sau khi ông Ngô Lợi mất, phong trào cũng tan rã chỉ còn lại hoạt động tín ngưỡng. Phật giáo Hòa Hảo là một tông phái Phật giáo do ông Huỳnh Phú Sổ (Đức Thầy) sáng lập năm 1939, lấy pháp môn Học Phật – Tu Nhân làm căn bản, truyền bá cho nhân dân tư tưởng Bửu Sơn Kỳ Hương để chấn hưng Phật giáo. Phật giáo Hòa Hảo lấy nền tảng là đạo Phật kết hợp với bài sấm kệ do Đức Thầy biên soạn, chủ trương tu hành tại gia. Đạo Cao Đài được thành lập ở ở Nam Bộ từ đầu thế kỷ XX, là một tôn giáo dung hợp nhiều tôn giáo lớn: Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo, Hồi giáo, Cơ đốc giáo, Thần đạo, một số tôn giáo đa thần thời cổ đại; thờ các nhà chính trị, nhà văn cận đại Tôn Dật Tiên, Victor Huygô và Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tín đồ đạo Cao Đài tin rằng Thượng đế là Đấng sáng lập các tôn giáo và vũ trụ. Đạo Cao Đài được Thượng đế trực tiếp khai sáng thông qua Cơ bút với nhiệm vụ Đại Đạo Tam Kỳ phổ độ, nghĩa là nền đạo lớn cứu khổ lần thứ ba.

Về tín ngưỡng tôn giáo, người Việt ở Nam Bộ gửi gắm nhiều cho đạo Phật cùng với tín ngưỡng vạn vật hữu linh, thờ cúng tổ tiên. Chùa chiền có mặt ở khắp nơi của đồng

bằng Nam Bộ. Đạo Phật cũng là cơ sở để hình thành đạo Phật giáo Hòa Hảo, có khoảng hai triệu tín đồ. Đạo Phật cùng đạo Khổng, đạo Lão, đạo Thiên Chúa là cơ sở hình thành đạo Cao Đài, gần ba triệu tín đồ ở Nam Bộ. Bên cạnh đó, đạo Thiên Chúa, Tin Lành ở Nam Bộ cũng khá đông tín đồ. Các tôn giáo trên đã góp phần hình thành nhiều đạo khác, tuy ít tín đồ nhưng đã đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân Nam Bộ, như đạo Dừa, đạo Ông Trần...Ngoài ra, người dân Nam Bộ còn duy trì tín ngưỡng thờ cúng đình, miếu, như: thờ cúng Thành Hoàng, thờ cúng Bà Chúa Xứ, thờ cúng cá Ông... Như vậy, Nam Bộ là vùng đất phong phú nhất về tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam.

Về lễ hội, tương ứng với sự phong phú về cách thức hoạt động sản xuất và tín ngưỡng, lễ hội của người Việt Nam ở Nam Bộ rất đa dạng: lễ hội nông nghiệp - ngư nghiệp, lễ hội tín ngưỡng - tôn giáo, lễ hội tưởng niệm danh nhân - anh hùng dân tộc; lễ hội hỗn hợp. Ở đình làng, thường xuyên có các lễ hội Kỳ yên tiến hành vào đầu năm và cuối năm, để tạ ơn Thành Hoàng Bổn Cảnh, các thần linh và các bậc tiền hiền, hậu hiền có công khai khẩn, khai cơ, giúp dân an cư lạc nghiệp. Ở vùng ven biển, lễ hội Nghinh Ông là sự kiện quan trọng bậc nhất trong đời sống văn hoá và tâm linh của cư dân. Lễ hội tưởng niệm các danh nhân có công mở đất như Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu), Lê Văn Duyệt... và lễ hội tưởng niệm các anh hùng dân tộc như Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Vò Duy Dương, Nguyễn Hữu Huân... đều là những lễ hội long trọng do nhân dân tổ chức, với sự hỗ trợ của chính quyền. Lễ hội tín ngưỡng - tôn giáo tiêu biểu là lễ hội vía Bà Chúa Xứ ở núi Sam, Châu Đốc (An Giang). Lễ hội người Khmer gồm hai loại chính: lễ hội nông nghiệp - ngư nghiệp, lễ hội tín ngưỡng - tôn giáo. Lễ hội của người Hoa thiên về tín ngưỡng dân gian và thờ cúng tổ tiên. Người Chăm Nam Bộ theo đạo Hồi nên lễ hội chủ yếu của người Chăm là tín ngưỡng - tôn giáo. Nam Bộ là vùng đồng bằng rộng lớn ở phía nam đất nước, là xứ sở lạ lùng, đầy bí ẩn con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh, nhưng cởi mở, dễ làm ăn sinh sống ruộng đồng mặc sức chim bay. Là nơi đất lành chim đậu, vùng đất trù phú, đa tộc người của lưu dân người Việt, người Khmer, người Hoa, người Chăm và các tộc người khác, Nam Bộ đã trở thành môi sinh thuận lợi để phát triển tôn giáo – tín ngưỡng có nguồn gốc từ Bắc Bộ, Trung Bộ hoặc từ các tộc người trong quá trình cộng cư sinh sống. Bên cạnh đó, Nam Bộ còn là nơi sản sinh nhiều tôn giáo người Việt của cư dân vùng này. Do đó, đây là vùng đất đa dạng về tín ngưỡng – tôn giáo ở Việt Nam với đầy đủ các loại hình tôn giáo đa thần, độc thần, nội sinh, ngoại sinh. Chính vì vậy, đời sống tâm linh của người dân

Nam Bộ rất phong phú. Có thể nói, môi trường sống đã ảnh hưởng lớn đến việc hình thành đặc trưng văn hóa vật chất và tinh thần của cộng đồng cư dân vùng này. Trên vùng đất mới, ngay từ đầu, văn hóa cư dân người Việt đã giao lưu mật thiết với văn hóa các cư dân Khmer, Hoa…Sự gặp gỡ, giao lưu văn hóa đã giúp văn hoá Việt nơi đây thu nạp, bổ sung những giá trị văn hóa mới theo hướng làm cho nó thích ứng với văn hoá Việt, với nhu cầu của người Việt. Bên cạnh giao lưu văn hóa, văn hóa Nam Bộ còn mang đặc trưng đồng bằng sông nước. Những đặc trưng chủ đạo này đã buộc các cư dân lập nghiệp nơi đây phải lược bỏ những giá trị không còn phù hợp với môi trường mới, sáng tạo nên những giá trị mới để giúp con người đoàn kết, hòa đồng cộng cư sinh sống và phát triển ở vùng sông nước. Vì vậy, tính năng động, bao dung, trọng nghĩa, thiết thực dần dần trở thành bản sắc văn hóa Nam Bộ. Từ đó, hình thành tính cách người Nam Bộ với nhiều nét khác với vùng văn hóa đồng bằng Trung Bộ, Bắc Bộ, đó là: cởi mở, phóng khoáng, không thích ràng buộc; trong mưu sinh thì có tinh thần mạo hiểm, bươn chải, sáng tạo, nhanh nhạy với cái mới; trong ứng xử thì bộc trực, hào hiệp, trọng nghĩa, khinh tài, ăn chơi xả láng…Tính cách này bộc lộ rò hơn khi thực dân xâm lược Nam Bộ. Người dân theo lời kêu gọi Cần Vương, hưởng ứng tất cả các phong trào khởi nghĩa của các sĩ phu với lòng yêu nước, thương dân, ghét Tây và với tinh thần kiên cường, bất khuất đánh giặc bảo vệ quê hương. Những tính cách văn hóa của người Nam Bộ đã tích tụ trong con người Nguyễn Trung Trực, người anh hùng trong buổi đầu kháng Pháp nửa cuối thế kỷ XIX. Có thể nói, Nam Bộ đã sinh ra Nguyễn Trung Trực; Ông đã chiến đấu, hy sinh vì vùng đất này và trở thành vị thần trong tín ngưỡng thờ cúng AHDT của nhân dân Nam Bộ.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Nhằm xác định nền tảng lý thuyết làm cơ sở nghiên cứu, NCS tập trung trình bày các vấn đề về tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý luận và địa bàn nghiên cứu. Chương 1 của luận án đã phân tích các bài viết, chuyên khảo, công trình nghiên cứu về Nguyễn Trung Trực trước và sau năm 1975 để làm rò sự đồng thuận của các NCS về vấn đề nghiên cứu cũng như bổ sung các thông tin, nhận định, kết luận có giá trị khoa học và thực tiễn mà các nhà nghiên cứu trước còn bỏ trống hoặc chưa đề cập đến. Để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu, luận án làm rò nội hàm của các khái niệm tín ngưỡng, văn hóa, văn hóa tín ngưỡng, đời sống văn hóa. Trong đó, đời sống văn hóa được xem xét chủ yếu ở góc độ đời sống văn hóa tinh thần, cụ thể là đời sống văn hóa tín ngưỡng. Luận án đã áp dụng

Xem tất cả 280 trang.

Ngày đăng: 21/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí