chuỗi dưới dạng tiền mặt hoặc hàng hóa. Khi đến hạn, tiền thanh toán hàng nông sản của đơn vị đại diện chi trả cho nông dân sẽ chính là nguồn thu nợ của ngân hàng đối với khoản vay của người nông dân. Sự thành công của mô hình tín dụng theo chuỗi giá trị phụ thuộc nhiều vào năng lực của chủ thể đại diện (Ifad, 2012).
Chủ thể đại diện cho chuỗi giá trị phải có các đặc điểm sau:
- Về khâu trong chuỗi giá trị, chủ thể đại diện thường tập trung ở khâu thu mua, sản xuất, chế biến.
- Về quy mô, chủ thể đại diện thường có quy mô hoạt động lớn trong chuỗi giá trị, có sự an hiểu về hoạt động sản xuất của chuỗi, các thành viên trong chuỗi. Đây là chủ thể có kinh nghiệm và có kỹ thuật nuôi trồng nông nghiệp. Trên cơ sở đó, đơn vị này sẽ hướng dẫn hộ nông dân phương pháp nuôi trồng hiệu quả, đem lại năng suất cao, các kỹ thuật mới ... Đây cũng là đơn vị giúp bình ổn giá cả nông sản thông qua việc cam kết mua lại nông sản của nông dân khi đến vụ thu hoạch thông qua hợp đồng mua bán.
- Cóuy tín với các chủ thể khác trong chuỗi giá trị.
1.2.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng theo chuỗi giá trị ngành nông nghiệp
1.2.2.1. Sự luân chuyển của nguồn vốn tín dụng
Tín dụng theo chuỗi giá trị đưa ra nhiều điểm tiếp cận và cơ hội thu thập thông tin không chỉ với một khách hàng riêng lẻ mà là một hệ thống các khách hàng hoặc ngành. Ngân hàng thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp hỗ trợ tài chính nhằm giải quyết nhu cầu tài chính của các thành viên trong chuỗi giá trị. Đây là mối quan hệ giữa ngân hàng với một nhóm khách hàng trong chuỗi giá trị.Mối quan hệ này được miêu tả tại sơ đồ 1.6.Nguồn thu nợ của khâu trước chính là nguồn vốn giải ngân của khâu sau. Ngân hàng chỉ thật sự thu về nguồn vốn đầu tư của mình khi thu được nợ vay của khách hàng tại khâu cuối cùng của chuỗi giá trị ngành nông nghiệp đã đầu tư. Do vậy, nguồn vốn tín dụng của ngân hàng được luân chuyển nhanh hơn trong chuỗi giá trị ngành nông nghiệp.
Sơ đồ 1.6: Mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng trong tín dụng theo chuỗi giá trị
Ngân hàng
Nhàcung cấp thức ăn chăn nuôi
Nông dân
Hợp tác xã
Doanh nghiệp/nhà bán buôn
Thương lái/công ty vận tải
Người tiêu dung/Đơn vị bán lẻ
Nguồn: Tác giả tự xây dựng (2017)
1.2.2.2. Sự phân bổ của nguồn vốn tín dụng
Khu vực phân bổ tự nhiên của nông sản thường tập trung ở một số khu vực có điều kiện tự nhiên, khí hậu thích hợp với việc nuôi trồng. Do đó, các đơn vị trong khâu nguyên liệu đầu vào và sản xuất của chuỗi thường nằm gần khu vực đó.
Vì vậy, nguồn vốn tín dụng theo chuỗi giá trị ngành nông nghiệp thường tập trung tạimột số khu vực nhất định. Ngân hàng đóng vai trò giám sát toàn bộ hoặc một phần chuỗi giá trị thông qua việc sản xuất kinh doanh và sử dụng tiền vay của các thành viên trong chuỗi. Trên cơ sở đó, ngân hàng thường có xu hướng lựa chọn các chuỗi giá trị có phạm vi địa lý giữa các thành viên trong chuỗi gần nhau, tập trung để đề ra quyết định cho vay. Khâu nuôi trồng nông sản thường chiếm chi phí lớn nhất trong các khâu liên quan đến ngành nông nghiệp. Do vậy, nguồn vốn tín dụng ngắn hạn chủ yếu tập trung tại khâu này.
Nông sản là mặt hàng dễ bị giảm phẩm chất sau khi thu hoạch. Do đó, yêu cầu chế biến và bảo quản chặt chẽ. Đặc điểm này làm tăng chi phí và hạn chế sự phát triển mở rộng của đơn vị tại khâu chế biến tham gia ngành nông nghiệp.Để đáp ứng được yêu cầu của thị trường tiêu thụ, việc đầu tư các máy móc, dây chuyền, thiết bị công nghệ cao, thích hợp với chế biến và bảo quản là rất cần thiết. Chi phí đầu tư nêu trên thường lớn và thời gian vay vốn dài do đây là công tác đầu tư vào tài sản cố định.
1.2.2.3. Công tác thẩm định
Hoạt động của chuỗi giá trị ngành nông nghiệp là yếu tố nền tảng để ngân hàng xem xét ra quyết định cho vay. Cách thức tương tác giữa các đơn vị cung ứng, sản xuất, mua bán và đơn vị khác trong chuỗi giá trị là cơ sở chủ chốt để ngân hàng quyết định cho vay. Mối quan hệ giữa các thành viên trong chuỗi giá trị thuận lợi là điều kiện chủ chốt để chuỗi giá trị nâng cao tính hiệu quả. Do đó, ngân hàng sẽ nâng cao được độ tin cậy, gia tăng kiểm soát và nguyên tắc ở các thành viên trong chuỗi giá trị.
Bên cạnh đó, tình trạng chung của thị trường hàng hóa ảnh hưởng đến dòng tiền mặt của chuỗi, vấn đề giải quyết rủi ro trong khả năng chi trả khi khách hàng thanh toán trực tiếp cho nhà cung cấp đầu vào và từ ngân hàng đến nhà sản xuất, vấn đề nhìn nhận tiềm năng phát triển và sự lành mạnh của chuỗi giá trị, khả năng hòa nhập của từng thành viên trong chuỗi là yếu tố được ngân hàng quan tâm và thẩm định.
Đối với hình thức cho vay này , ngân hàng không chú trọng nhiều vào vốn tự có của khách hàng riêng lẻ mà tập trung vào khả năng vốn hóa của toàn bộ chuỗi giá trị. Đây là yếu tố quyết định sự thành công của một chuỗi giá trị.
Đồng thời, ngân hàng không chỉ quan tâm đến lịch sử tín dụng của từng đơn vị độc lập trong chuỗi giá trị mà còn các vấn đề liên quan đến chuỗi như: thời gian tồn
tại của chuỗi, mức độ ổn định của chuỗi giá trị, thời gian làm việc giữa các đối tác trong chuỗi, rủi ro liên quan giữa các đối tác trong chuỗi và cách thức giải quyết rủi ro liên quan, những đối tác nào trong chuỗi giá trị là khách hàng của ngân hàng.
Đặc điểm quan trọng nhất của ngân hàng khi tiến hành thẩm định chuỗi giá trị nông sản là sự hiểu biết, kiến thức của ngân hàng về hoạt động, phương thức vận hành và các rủi ro đặc trưng của chuỗi giá trị đó hơn là việc thẩm định từng khách hàng riêng lẻ. Các tác nhân trong chuỗi giá trị càng có nhiều mối liên kết chặt chẽ và uy tín với các tác nhân khác trong chuỗi giá trị thì khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng càng lớn. Bốn nhân tố chính để ngân hàng xác định việc đầu tư vào một chuỗi giá trị là: (1) tiềm lực, cơ hội và thách thức của chuỗi giá trị; (2) rủi ro hoạt động của chuỗi giá trị; (3) kỹ thuật, đơn vị hỗ trợ cho chuỗi giá trị; (4) phương thức quản trị chuỗi đó(Shwedel, 2007).
Tóm lại, tín dụng theo chuỗi giá trịngành nông nghiệp tập trung vào toàn bộ chuỗi. Giao dịch và quyết định cho vay dựa trên các tiêu chí như dòng lưu thông tài sản, năng lực thực hiện, quản lý rủi ro, khả năng cạnh tranh trên chuỗi và chất lượng của sự tương tác và phụ thuộc lẫn nhau giữa những thành viên trong chuỗi chứ không chỉ dựa trên năng lực và khả năng tài chính của một khách hàng độc lập.
1.2.2.4. Sản phẩm cho vay
Các sản phẩm tín dụng thường được ứng dụng cho chuỗi giá trị nông sản được miêu tả tại bảng 1.2.
Bảng 1.2: Cấu trúc tín dụng theo chuỗi giá trị nông nghiệp
Sản phẩm | |
Đáp ứng nhu cầu vốn | Cho vay từng lần; Cho vay theo hạn mức tín dụng; Thấu chi; Cho vay trả góp; Cho thuêtài chính |
Các khoản phải thu | Tín dụng các khoản phải thu; Bao thanh toán |
Tài sản | Cho thuê tài chính; Mua bán chứng khoán có kỳ hạn |
Hạn chế rủi ro | Hợp đồng kỳ hạn; Hợp đồng tương lai |
Bảo lãnh bên thứ ba | Bảo lãnh tín dụng; Chứng khoán hóa |
Có thể bạn quan tâm!
- Tín dụng ngân hàng theo chuỗi giá trị đối với ngành cá tra Việt Nam - 3
- Đối Tượng Và Phạm Vi Nghiêncứu 5.1.đối Tượng Nghiêncứu
- Tín Dụng Ngân Hàng Theo Chuỗi Giá Trị Ngành Nông Nghiệp
- Quy Trình Tín Dụng Ngân Hàng Theo Chuỗi Giá Trị Ngành Nông Nghiệp
- Nhóm Các Nhân Tố Thuộc Bên Ngoài Ngân Hàng
- Bộ Tiêu Chí Đánh Giá Kết Quả Triển Khai Tín Dụng Ngân Hàng Theo Chuỗi Giá Trị Ngành Nông Nghiệp
Xem toàn bộ 209 trang tài liệu này.
Nguồn: FAO và United Nations Industrial Development Organization (2012)
Trong luận án này, các sản phẩm tín dụng theo chuỗi giá trị ngành nông nghiệp gồm:
- Cho vay từng lần: là trong mỗi lần vay vốn, khách hàng cùng ngân hàng lập thủ tục vay, ký kết hợp đồng tín dụng cho lần vay và rút vốn một lần. Thời hạn vay vốn phụ thuộc vào nhu cầu của khách hàng. Mục đích của các khoản vay là đáp ứng nhu cầu về vốn để hoạt động nuôi trồng/sản xuất của người vay được ổn định.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: ngân hàng cùng khách hàng thỏa thuận hạn mức tín dụng nhất định trong thời gian (thường là một năm). Trong thời gian đó, khách hàng có thể rút vốn/trả vốn nhiều lần theo giấy nhận nợ. Mục đích vay vốn chủ yếu đáp ứng nhu cầu vốn lưu động phục vụ sản xuất với thời hạn vay vốn dưới một năm. Ưu điểm của sản phẩm này là tính linh hoạt và thuận lợi trong việc tiếp cận vốn vay.
- Cho vay trả góp: hình thức này áp dụng với các nhu cầu tiêu dùng sinh hoạt của khách hàng, căn cứ vào mức thu nhập thường xuyên ổn định của khách hàng để ngân hàng có thể cho vay và xác định kỳ hạn trả gốc, lãi phù hợp với thu nhập của khách hàng. Trong cho vay theo chuỗi giá trị, hình thức cho vay này thường áp dụng cho các khách hàng có nhu cầu đầu tư vào tài sản cố định, thiết bị sản xuất.
1.2.2.5. Công tác giải ngân và thu nợ có tính mùa vụ
Tuổi thuần thục, trưởng thành của nông sản thường cố định, tập trung vào một số mùa vụ trong năm. Vào vụ thu hoạch, sản lượng nông sản tăng nhanh và có chất lượng cao. Ngược lại, khi hết vụ thu hoạch thì sản lượng nông sản giảm và chất lượng thấp. Đặc điểm này làm cho việc phân phối hàng hóa trở nên khó khăn và giá cả ít ổn định.
Thế nên, công tác giải ngân và xác định lịch trả nợ của khách hàng trong hoạt động tín dụng theo chuỗi giá trị ngành nông nghiệp dựa trên các mốc thời gian hoàn thành và lưu chuyển dòng tiền của từng khâu trong chuỗi, đảm bảo việc luân chuyển vốn tín dụng vào các mùa vụ phù hợp, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho chuỗi giá trị ngành nông nghiệp và đảm bảo việc thu hồi vốn đúng tiến độ, tránh rủi ro cho ngân hàng.
1.2.2.6. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là luồng thu nhập dự tính mang lại từ khoản vay của ngân hàng không thể thực hiện được cả về số lượng và thời hạn. Tín dụng theo chuỗi giá trị ngành nông nghiệp cũng là một hình thức của tín dụng ngân hàng. Vì vậy, kế thừa nhận định trên, trong luận văn này, rủi ro tín dụng theo chuỗi giá trị là khoản lỗ tiềm năng khi ngân hàng cấp tín dụng cho một khách hàng trong chuỗi giá trị.
Phân loại rủi ro tín dụng
Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, nhiều rủi ro thường phát sinh là do sự thay đổi của thời tiết, khí hậu, thổ nhưỡng, dịch bệnh, tính thời vụ của sản xuất, giá cả, chính sách trong và ngoài nước về nông sản và ngành nông nghiệp (USAID, 2005). Chuỗi giá trị ngành nông nghiệp vì thế cũng chịu ảnh hưởng đối với những rủi ro này. Sự thay đổi về định hướng phát triển, cơ chế quản lý vĩ mô cũng ảnh hưởng đến hoạt động của chuỗi (Jaffee, Siegel, & Andrews, 2010).
Trong hoạt động tín dụng theo chuỗi giá trị nông nghiệp, nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng gồm:
- Rủi ro bên ngoài chuỗi giá trị ngành nông nghiệp
Đây là rủi ro tín dụng xuất phát từ các yếu tố bên ngoài chuỗi giá trị. Trong đó, người sản xuất không đạt được năng suất như kỳ vọng do ảnh hưởng tiêu cực của các yếu tố tự nhiên như thiên tai, dịch bệnh, biến đổi môi trường... hoặc sự thay đổi về nhu cầu tiêu dùng của khách hàng khiến giá bán của sản phẩm không ổn định và có chiều hướng suy giảm.
- Rủi ro bên trong chuỗi giá trị ngành nông nghiệp
Đây là rủi ro tín dụng xuất phát từ chính các nhân tố trong chuỗi giá trị có vay vốn ngân hàng. Theo đó, khách hàng không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng xuất phát từ sự yếu kém trong hoạt động sản xuất, nuôi trồng, kinh doanh.
- Rủi ro từ các đơn vị hỗ trợ chuỗi giá trị ngành nông nghiệp
Chuỗi giá trị ngành nông nghiệp được hỗ trợ từ các tác nhân bên ngoài chuỗi, bao gồm các đơn vị trong các tổ chức Chính phủ hoặc phi Chính phủ (chẳng hạn như hiệp hội, TCTD, trường đại học, viện nghiên cứu...), thực hiện hoạt động nhằm mục đích phát triển ngành nghề nuôi như nâng cao trình độ kỹ thuật cho nông dân, thực hiện các chính sách hỗ trợ trong sản xuất, tiếp cận vốn vay, mở rộng quy mô sản xuất... theo xu hướng có lợi cho hoạt động của chuỗi. Bất kỳ sự thay đổi theo hướng bất lợi cho chuỗi giá trị đều ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất và kinh doanh của các nhân tố trong chuỗi đó
Các tiêu chí phản ảnh rủi ro tín dụng theo chuỗi giá trị ngành nông nghiệp và giải pháp khắc phục
Kế thừa nghiên cứu “Agricultural value chain finance strategy and design” (Miller, 2012), tác gi ả xác định các tiêu chíph ản ánh r ủi ro tín d ụng theo chuỗi giá trị vàgi ải pháp kh ắc phục như sau:
- Hoạt động sản xuất của chuỗi giá trị
Để có nông nghiệp thành phẩm phải trải qua một quá trình gồm nhiều khâu khác nhau bao gồm: hoạt động ở đơn vị con giống (thuộc lĩnh vực nông nghiệp), hoạt động nuôi trồng (thuộc lĩnh vực nông nghiệp), hoạt động thu gom và sơ chế (thuộc lĩnh vực thương mại và công nghiệp), hoạt động chế biến (thuộc lĩnh vực công ngh iệp), hoạt động phân phối và xuất khẩu (thuộc lĩnh vực công nghiệp và đầu tư). Do vậy, sự thiếu hụt hoặc khó khăn về chất lượng và giá cả từ khâu trước sẽ là áp lực cho khâu sau. Năng lực điều hành, quản trị và kỹ năng sản xuất, nuôi trồng kém sẽ dẫn đến hoạt động kinh doanh của khách hàng không hiệu quả.Những rủi ro phát sinh từ các yếu tố như: nguồn cung cấp đầu vào kém chất lượng, tiêu chuẩn chất lượng thấp, lưu trữvà đóng gói không phù hợp... Bên cạnh đó, người đại diện
của chuỗi nếu không đóng được vai trò là đơn vị kết nối với các chủ thể khác trong chuỗi giá như không đáp ứng được các yêu cầu về quy mô sản xuất, uy tín và khả năng thành toán đúng hạn... cũng ảnh hưởng đến hoạt động của chuỗi giá trị.
Hiện nay, chưa có bộ tiêu chí chuẩn mực đánh giá về hiệu quả hoạt động của một chuỗi giá trị. Tuy nhiện, các chỉ số đánh giá hoạt động của chuỗi có thể được dùng để xem xét bao gồm:
+ Mức độ tham gia của các nhà sản xuất (số lượng và cấp độ tham gia);
+ Doanh số bán hàng của các nhà sản xuất (tổng doanh thu);
+ Giá trị gia tăng (thu nhập);
+Uy tín tín dụng;
+Chất lượng của danh mục đầu tư tín dụng (phần trăm hoàn trả nghĩa vụ, khoản vay hoặc giao hàng bằng hiện vật);
+Tính bền vững của các dịch vụ tài chính liên quan (chi phí cho vay so với lãi suất và phí) .
Bằng cách sử dụng một cách tiếp cận chuỗi toàn diện, ngân hàng cần hiểu biết rõ hơn về năng lực của các đối tác, bao gồm năng lực của nhà sản xuất để đảm bảo cung cấp đủ về số lượng và chất lượng. Ngân hàng cũng có thể tài trợ và quản lý các giao dịch tài chính cho các chủ thể khác nhau trong chuỗi (ví dụ: nhà cung cấp đầu vào, cơ sở lưu trữ, thương mại) và bảo hiểm.
- Tính thanh khoản củahợp đồng mua bán
Đây là tình huống mà người sản xuất/nông dân không tôn trọng nghĩa vụ cung ứng theo hợp đồng của họ.Nguyên nhân của rủi ro này là do sự không thống nhất về chất lượng sản phẩm, thời hạn giao hàng, thời hạn thanh toán giữa các bên trong chuỗi giá trị đã ký kết hợp đồng mua bán. Việc không thu hồi các khoản nợ đúng hạn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận và hoạt động sản xuất của người sản xuất. Do vậy, khách hàng không có nguồn thu để trả nợ cho ngân hàng đúng hạn. Đây cũng là nguyên nhân chính ảnh hưởng đến sự bền vững trong hoạt động của chuỗi giá trị, ảnh hưởng tiêu cực đến việc trả nợ cho ngân hàng .
Ngân hàng kết hợp với hợp tác xã, đơn vị đại diện thực hiện liên kết các thành viên trong chuỗi giá trị thông quaviệc đảm bảo rằng các hợp đồng sẽ được thực hiện và các rủi ro của việc phá giá giá bán nông sản được giảm thiểu. Hóa đơn kho vận có thể trở thành tài sản thế chấp màngân hàng trở thành một bên trên hợp đồng.
- Tình hình tài chính của các chủ thể trong chuỗi giá trị
Tỷ lệ vốn tự có so với nhu cầu về vốn kinh doanh thấp, nợ của khách hàng lớn.
Áp lực trả lãi và nợ gốc làm tăng chi phí và giảm lợi nhuận trong hoạt động sản xuất của khách hàng. Từ đó, khả năng trả nợ của khách hàng sẽ bị ảnh hưởng.
Năm chỉ số tài chính tác động đến rủi ro tín dụng của doanh nghiệp là: tỷ lệ thanh toán tiền mặt, Tổng nợ/Tổng tài sản, Nợ ngắn hạn/Tổng nợ, Tài sản ngắn hạn/Tổng tài sản và Lợi nhuận sau thuế/Vốn chủ sở hữu. Trong đó, chỉ số Tài sản/Tổng tài sản có quan hệ cùng chiều đến rủi ro tín dụng (Nguyễn Thị Cành, 2015).
Việc không hoàn trả tín dụng có thể được giảm đáng kể bằng cách kết hợp một chủ thể đại diện đáng tin cậy trong quá trình cho vay. Hình thức thỏa thuận loại này được đảm bảo khi một chủ thể chính (đồng ký kết) có thể chấp nhận rủi ro (chẳng hạn thông qua vốn chủ sở hữu hoặc tiết kiệm thành viên). Cho vay thông qua sự sắp xếp ba bên không chỉ giúp cải thiện hiệu quả của việc cung cấp tín dụng, mà còn giảm thiểu rủi ro của các khoản nợ xấu.
- Độ biến động của giá cả hàng nông sản
Sự biến động của giá cả thị trường của nông sản trong khoảng thời gian giữa thời điểm hợp đồng được ký kết và ngày giao hàng sẽ ảnh hưởng đến các nhà sản xuất/nông dân hoặc chủ thể khác trong chuỗi gánh chịu, tùy thuộc vào loại hợp đồng.
Liên kết trực tiếp đến thị trường tiêu dùng cuối cùng là một giải pháp duy trì ổn định về giá. Các thỏa thuận hợp đồng nên minh bạch để giúp các tổ chức cung ứng dịch vụ tài chính đánh giá rủi ro. ngân hàng nên quy định cụ thể việc mua bảo hiểm rủi ro giá đối với hợp đồng có kỳ hạn của các khách hàng tham gia vay vốn thông quatín dụng theo chuỗi giá trị ngành nông nghiệp. Đồng thời, ngân hàng kết hợp với các hiệp hội/tổ chức đưa ra thông tin tình hình tiêu thụ sản phẩm cho khách hàng nhằm hạn chế tình trạng bị ép giá từ người mua.
- Sự thay đổi của khí hậu
Những thay đổi lớn về khí hậu như thiên tai, dịch bệnh... ảnh hưởng tiêu cực trực tiếp đến hoạt động của chuỗi giá trị, từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của toàn bộ các chủ thể trong chuỗi.
Ngân hàng n ên quy định cụ thể về việc mua bảo hiển sản xuất nông nghiệp khi khách hàng tham gia vay vốn theo mô hình chuỗi giá trị. Đồng thời, ngân hàng kết hợp với các hiệp hội/tổ chức khuyến nông, thú y hướng dẫn nông dân kỹ thuật sản xuất, nuôi trồng tân tiến và phù hợp với từng điều kiện tự nhiên cụ thể để hạn chế tối đa những tổn hại trong hoạt động sản xuất và nuôi trồng.
- Chính sách, chủ trương của Chính phủ
Bất kỳ sự thay đổi theo hướng bất lợi cho chuỗi giá trị đều ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất và kinh doanh của các nhân tố trong chuỗi đó, chẳng hạn:
+ Sự thay đổi của Chính phủ về chính sách ưu tiên phát triển/chính sách luật pháp theo hướng bất lợi đến một chuỗi giá trị ngành nông nghiệp sẽ gây khó khăn cho các thành viên trong chuỗi trong việc mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Từ đó, khả năng hoàn trả nợ cho ngân hàng sẽ gặp khó khăn.
+ Sự thay đổi của ngân hàng về quy trình, chiến lược kinh doanh và chính sách cho vay theo hướng không tích cực đối với chuỗi giá trị sẽ ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận vốn vay của các nhân tố trong chuỗi giá trị đó.
Để hạn chế rủi ro này, ngân hàng cần cập nhật thông tin kịp thời và có dự báo về khả năng phát triển trong tương lai của một chuỗi giá trị nhất định để hạn chế những tổn thất xảy ra.
1.2.3. Các chủ thể tham gia tín dụng theo chuỗi giá trị ngành nông nghiệp
Hai đối tượng tham gia vào tín dụng theo chuỗi giá trị ngành nông nghiệp bao gồm: đối tượng đi vay, đối tượng cho vay, sản phẩm tín dụng của ngân hàng.
1.2.3.1. Đối tượng cho vay
- Các định chế tài chính: là các NHTM và các định chế tàichính phi ngân hàng (Các tổ chức tài chính, các hiệp hội tín dụng cho vay, tiết kiệm).
- Các nhà cung cấp tín dụng trong quá trình bán sản phẩm dịch vụ (Các nhà cung cấp đầu vào, cung cấp thiết bị, các nhà cung cấp dịch vụ…).
Quá trình cho vay theo chuỗi giá trị sẽ cho phép tích hợp các chủ thể tham gia khác nhau trong quy trình sản xuất, chế biến và tiếp thị thuộc lĩnh vực nông nghiệp. Các vai trò khác nhau của các chủ thể tham gia sẽ được phân định, trong khi đó tại cùng một thời điểm, phạm vi và mục đích của các đối tác cũng có thể được thiết lập. Tín dụng theo chuỗi giá trị bao gồm việc tiếp cận cho vay cùng với một tập hợp các công cụ tài chính được sử dụng để mở rộng và cải thiện các dịch vụ tài chính, đáp ứng nhu cầu của những chủ thể tham gia trong chuỗi giá trị. Tín dụng theo chuỗi giá trị thường tài trợ các mục đích: đầu tư sản xuất hoặc thu hoạch, mua nguyên liệu đầu vào hoặc sản phẩm, đầu tư nguồn lao động, cung cấp thấu chi hoặc các hình thức liên quan đến tín dụng, quỹ đầu tư, giảm thiểu rủi ro.
1.2.3.2. Đối tượng đi vay
Phụ lục 2 miêu tả về cấu trúc các đối tượng tham gia vào chuỗi giá trị nông sản.
Theo đó, cấu trúc các đối tượng đi vay trong chuỗi giá trị ngành nông nghiệp:
- Trung tâm nghiên cứu hỗ trợ, hội nghề nghiệp, cơ quan quản lý Nhà nước: