Tín dụng ngân hàng theo chuỗi giá trị đối với ngành cá tra Việt Nam - 22


sở hữu công trình được xây dựng trên đất nông nghiệp mặc dù đây là công trình (ao cá, công trình phụ trợ,...) dùng để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Điều này đã gây khó khăn cho ngân hàng và doanh nghiệp khi định giá tài sản đảm bảo cho khoản vay. Mặc dù giá trị đầu tư tài sản hình thành trên đất trong hoạt động ngành cá tra là khá cao. Sửa đổi luật đất đai theo hướng công nhận tài sản hình thành trên đất là giải pháp để nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn cho khách hàng và giúp ngân hàng thuận tiện trong việc thẩm định và ra quyết định cho vay.

Các địa phương cần chủ động triển khai Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT ngày 29/9/2017 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, trong đó có hướng dẫn thủ tục cấp giấy chứng nhận tài sản hình thành trên đất nông nghiệp để người dân có thể làm thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm, thế chấp vay vốn để tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp có tài sản bảo đảm thế chấp vay vốn ngân hàng.

- Xây dựng cơ sở vật chất, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động theo chuỗi giá trị ngành cá tra

Nhà nước cần đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng tại khu vực thực hiện dự án (hệ thống thủy lợi, kênh mương, đường giao thông,...), có chính sách hỗ trợ kịp thời đối với những khó khăn do thiên tai, hạn hán... để tạo điều kiện cho doanh nghiệp và người dân phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị ngành cá tra. Điều này vừa khuyến khích hộ nông dân, doanh nghiệp tham gia chuỗi, vừa nâng cao hiệu quả hoạt động của chuỗi theo hướng bền vững hơn.

- Hoàn thiện công tác quy hoạch vùng nuôi trồng, chế biến cá tra

Công tác quy hoạch không tốt là nguyên dẫn đến tình trạng người nông dân tập trung nuôi trồng cá tra khi giá cá tra lên cao và ngược lại. Hoàn thiện công tác quy hoạch vùng nuôi trồng và vùng sản xuất cá tra theo hướng rà soát và điều chỉnh các quy hoạch hiện không còn phù hợp, dự báo thị trường của từng mặt hàng cá tra thương phẩm, sự thay đổi của khí hậu/điều kiện tự nhiên. Các nhà máy, cơ sở chế biến phải có kế hoạch phát triển vùng nguyên liệu của đơn vị phù hợp với quy hoạch chung đã được phê duyệt. Trên cơ sở đó, tình trạng mất cân đối cung cầu mới được giải quyết. Đồng thời, quy hoạch hiệu quả sẽ giúp hình thành nên vùng nuôi trồng và sản xuất ngành cá tra tập trung, nâng cao được sự gắn kết giữa các đơn vị trong chuỗi và hiệu quả hóa lợi ích từ cơ sở hạ tầng.

- Thực hiện quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm và tiếp cận hệ thống chứng chỉ quốc tế

Một trong các trở ngại của việc xuất khẩu cá tra là vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, bao gồm: Hàm lượng kháng sinh cao, chất lượng cá không đạt tiêu chuẩn, sử dụng chất bảo quản... Yêu cầu đặt ra cho ngành cá tra là hàng hóa phải đạt quy


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 209 trang tài liệu này.

chuẩn về chất lượng, bao bì, đóng gói theo chuẩn mới quốc tế. Vì vậy quy định về thực hiện an toàn vệ sinh thực phẩm đối với chuỗi giá trị ngành cá tra là cần thiết. Trên cơ sở kiểm soát an toàn thực phẩm trong toàn bộ hoạt động của chuỗi, bắt đầu tư khâu nguyên liệu con giống đầu vào, nuôi trồng đến khâu thu hoạch, chế biến, sản xuất, xuất khẩu và các yếu tố liên quan đến quá trình sản xuất như môi trường, các chất hóa học, thuốc, bao bì, điều kiện làm việc, chất lượng cá tra sẽ được cải thiện, nâng cao khả năng tiêu thụ, cạnh tranh cả trong và ngoài nước.

- Khuyến khích NHTM phát triển tín dụng theo chuỗi giá trị ngành cá tra

Tín dụng ngân hàng theo chuỗi giá trị đối với ngành cá tra Việt Nam - 22

Trên cơ sở thực trạng cho vay theo chuỗi giá trị tại các NHTM Việt Nam cho thấy cho vay theo chuỗi giá trị là một mảng kinh doanh tiềm năng. Đa số ngân hàng có kế hoạch mở rộng hoạt động này trong ngắn-trung hạn; đặc biệt là chuỗi giá trị sản xuất sản phẩm nông nghiệp, thủy sản với nhiều cơ hội phát triển những dịch vụ tài chính đa dạng (thanh toán, thẻ, mua bán ngoại tệ, tài trợ xuất nhập khẩu, thu-chi hộ tiền mặt,…). Tuy nhiên, trong quá trình triển khai cho vay theo chuỗi giá trị thực tế vẫn gặp nhiều khó khăn khi không có đủ tài sản đảm bảo theo quy định hay tài sản đảm bảo không đủ giá trị để cho vay. Do vậy, các NHTM nhận định hoạt động cho vay theo chuỗi giá trị còn ẩn chứa nhiều rủi ro, bao gồm cả rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường. Vì vậy, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích NHTM tăng cường phát triển mô hình cho vay này thông qua các chính sách hỗ trợ về nguồn vốn giá rẻ, cơ chế ưu đãi khi triển khai cho vay.... này tạo sự thu hút ban đầu cho các NHTM. Sau khi triển khai thành công, phát triển được thị trường cho vay, các NHTM khác sẽ chủ động phát triển mô hình cho vay này.

- Ban hành cơ chế giám sát giá cá tra xuất khẩu

Với đặc trưng là quốc gia cung cấp nguồn cá tra lớn nhất cho các quốc gia trên thế giới, Việt Nam có nhiều doanh nghiệp hoạt động sản xuất và xuất khẩu trong ngành này. Vấn đề cạnh tranh không lành mạnh không chỉ đến từ các quốc gia nhập khẩu mà còn đến từ chính các doanh nghiệp trong nước thể hiện qua các hình thức bán phá giá. Ban hành quy định cụ thể về việc kiểm tra, giám sát giá xuất khẩu cá tra thành phẩm để tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh của các doanh nghiệp, làm ảnh hưởng đến giá xuất khẩu, từ đó ảnh hưởng đến giá thu mua nguyên liệu cho người nông dân, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của người nông dân và doanh nghiệp chế biến.

- Tăng cường vai trò của văn phòng UBND, các sở, ban, ngành liên quan tại địa phương nơi triển khai tín dụng theo chuỗi giá trị ngành cá tra

Sở, ban, ngành, chính quyền địa phương có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ hoạt động của chuỗi giá trị ngành cá tra và chất lượng nguồn vốn tín dụng được


đưa vào chuỗi đó. Vai trò của chính quyền trong giám sát, hỗ trợ sẽ đưa mối liên kết giữa doanh nghiệp và các hộ dân tham gia liên kết chặt chẽ hơn, chống lại những tin đồn thất thiệt về cá tra Việt Nam, tăng quyền tự chủ giá bán trên thị trường. Doanh nghiệp xuất khẩu cần có kế hoạch phân chia các thị trường mục tiêu, hạn chế việc tập trung quá nhiều vào một vài thị trường dẫn đến sự không cân bằng về cung và cầu. Trên cơ sở những chính sách, chương trình hỗ trợ phát triển nông nghiệp, ứng dụng khoa học công nghệ trong nông nghiệp được ban hành từ các đơn vị này, hoạt động của chuỗi giá trị sẽ hiệu quả hơn, hạn chế được tình trạng người dân bị phá vỡ hợp đồng khi thương lái mua giá cao hơn hay người dân tự ý mua giống, vật tư đầu vào không đảm bảo theo yêu cầu của doanh nghiệp. Từ đó, hiệu quả của nguồn vốn ngân hàng trong chuỗi giá trị sẽ đạt hiệu quả tối ưu nhất.Sự hỗ trợ của các đơn vị này về mặt chính sách, chủ trương, hỗ trợ cho NHTM khi triển khai tín dụng theo chuỗi giá trị ngành cá tra cũng là động lực để NHTM mạnh dạn triển khai mô hình cho vay mới này.

4.3.2. Kiến nghị đối với NHNN

- Ban hành cơ chế, quy chế hướng dẫn NHTM trong việc triển khai tín dụng theo chuỗi giá trị ngành cá tra

Trong mô hình thí điểm quy trình cho vay theo chuỗi giá trị giai đoạn 2014 – 2016, ngân hàng thực hiện giải ngân cho nông dân trong chuỗi qua doanh nghiệp đầu mối. Để tham gia vào mô hình tín dụng ngân hàng theo chuỗi giá trị ngành cá tra, hộ nông dân thỏa mãn các điều kiện chặt chẽ như: Cung cấp và xác nhận những thông tin chính xác, trung thực về kinh nghiệm, năng lực sản xuất; có năng lực thực hiện nội dung kiểm soát an toàn dịch bệnh, an toàn môi trường, an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc; sử dụng toàn bộ vật tư (thức ăn, thuốc thủy sản) do doanh nghiệp đầu mối kiểm tra, cung ứng ngay từ đầu vụ thả nuôi; đảm bảo giống tốt để thực hiện truy xuất nguồn gốc sau này. Hộ nông dân ký hợp đồng tín dụng với ngân hàng với mục đích vay vốn lưu động phục vụ việc nuôi trồng cá tra. Tuy nhiên, nông dân không nhận tiền mặt mà nhận thức ăn, thuốc, con giống… từ doanh nghiệp đầu mối. Ngân hàng thực hiện giải ngân cho doanh nghiệp đầu mối này để mua nguyên liệu đầu vào để phân phối cho nông dân. Định kỳ, doanh nghiệp đầu mối thực hiện chi trả tiền lãi và vốn đầu tư thức ăn nuôi cá cho ngân hàng mặc dù đây là khoản vay được ký kết giữa ngân hàng và nông dân.Theo hợp đồng nguyên tắc ba bên được ký giữa nông dân – doanh nghiệp đầu mối – ngân hàng, đến kỳ thu hoạch, doanh nghiệp đầu mối thu mua cá nguyên liệu đạt theo yêu cầu về số lượng và chất lượng đã ký kết) theo giá thực tế trên thị trường dựa trên sự tham chiếu của 03 công ty thuỷ sản lớn cùng khu vực. Sau khi bắt hết cá, doanh nghiệp đầu mối sẽ


thanh toán cho nông dâ n phần tiền mua cá còn lại sau khi đã trừ phần tiền mua thức ăn, thuốc mà nông dân đã nhận trong vụ nuôi do ngân hàng đã trả. Quá trình triển khai này khá tương đồng với quá trình triển khai tín dụng theo chuỗi giá trị nông sản của các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, hoạt động theo chuỗi giá trị được triển khai phổ biến trên thế giới vơi sự tham gia tích cực của các đơn vị hỗ trợ chuỗi như viện nghiên cứu, hợp tác xã, hiệp hội, chính quyền địa phương. Tại Việt Nam, trong ngành cá tra, hoạt động kinh doanh theo mô hình chuỗi giá trị còn mới mẻ, hầu như các đơn vị trong chuỗi, nhất là hộ nông dân nuôi trồng vẫn đang trong quá trình làm quen với mô hình cho vay này. Ngay cả đối với ngân hàng và chính quyền địa phương, tín dụng theo chuỗi giá trị là còn mới và chưa có kinh nghiệm triển khai. Vì vậy, việc chuyển giao nhiều quyền cho doanh nghiệp đầu mối như: Chủ động tìm nguồn cung ứng thức ăn, thuốc thủy sản cho nông dân; nhận tiền giải ngân mà ngân hàng cho hộ nông dân vay; xác định giá mua cá khi đến kỳ thu hoạch sẽ gây ra vấn đề độc quyền trong cung ứng nguyên liệu, tiêu thụ cá và trách nhiệm trả nợ khoản vay đúng hạn. Trong giai đoạn mới triển khai mô hình cho vay, sự tham gia tích cực của các đơn vị hỗ trợ như ngân hàng, chính quyền, hiệp hội, hợp tác xã là rất cần thiết nhằm hạn chế rủi ro sản xuất và rủi ro thanh khoản trong hoạt động của chuỗi giá trị ngành cá tra.

Như đã phân tích ở trên, liên kết của khách hàng trong chuỗi giá trị ngành cá tra Việt Nam chưa chặt chẽ nên hoạt động này chứa đựng nhiều rủi ro. Đây là mô hình cho vay mới và chỉ vừa được triển khai bằng hình thức thí điểm giai đoạn 2014

– 2016. Để NHTM làm tốt vai trò của mình, NHNN cần ban hành cơ chế, quy chế hướng dẫn quy trình tín dụng theo chuỗi giá trị nông nghiệp, trong đó ngân hàng không thực hiện giải ngân khoản vay của hộ nông dân cho doanh nghiệp đầu mối mà giải ngân trực tiếp cho đơn vị cung cấp thức ăn, thuốc cho nông dân. Đồng thời, quy trình cần nêu rõ vấn đề xử lý khi phát sinh nợ xấu. Đây là cơ sở để NHTM có đủ cơ sở pháp lý giải quyết rủi ro khi triển khai mô hình cho vay này.

Trong chương trình cho vay thí điểm, yêu cầu thủ tục liên quan đến hợp đồng phải tuân theo mẫu hợp đồng liên kết quy định tại Thông tư 15/2014/BNN. Vì vậy, doanh nghiệp đang khó khăn trong giải ngân do yêu cầu chứng từ hồ sơ hoàn thiện theo mẫu hợp đồng liên kết trong khi việc chuyển đổi hợp đồng cũ sang mẫu mới mất thời gian vì liên kết với rất nhiều hộ dân. Tuy nhiên, việc chuyển đổi mẫu hợp đồng cũ sang mới là cần thiết vì trong hoạt động tín dụng theo chuỗi giá trị ngành cá tra, hợp đồng mua bán là cơ sở để ngân hàng trong việc ra quyết định cho vay và kiểm soát khoản vay. Vì vậy, trong cơ chế ban hành liên quan đến hoạt động tín dụng theo chỗi giá trị nông sản, NHNN cần đề ra lộ trình hoàn thiện việc chuyển đổi này nhằm tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận khoản vay thuận lợi.


- Ban hành chính sách khuyến khích NHTM việc triển khai tín dụng theo chuỗi giá trị ngành cá tra

Hoạt động tín dụng theo chuỗi giá trị nông sản nói chung là xu thế tất yếu của quá trình hội nhập quốc tế. Để mô hình sản xuất này đi vào thực tiễn, nguồn vốn tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng. Nguồn vốn này giúp cải thiện năng lực tài chính của chuỗi, nâng cao hiệu quả hoạt động và chất lượng sản phẩm.

Để khuyến khích và hỗ trợ ngân hàng trong việc triển khai mô hình cho vay này, NHNN cần có chính sách tái cấp vốn cho ngân hàng khi gặp khó khăn trong quá trình triển khai mô hình cho vay này. Đồng thời, NHNN cần có cơ chế về tài chính và trích lập dự phòng, xử lý rủi ro phù hợp nhằm khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM đẩy mạnh hoạt động cho vay trong lĩnh vực đầu tư chuỗi giá trị nói chung và chuỗi giá trị ngành cá tra nói riêng.

- Ban hành quy trình đặc thù cho hoạt động cho vay theo chuỗi giá trị

Ban hành và s ửa đổi các văn bản định hướng hỗ trợ phát triển nông nghiệp nông thôn nói chung và ngành cá tra nói riêng, tăng cường hoạt động cho vay theo chuỗi giá trị cho phù hợp hơn với điều kiện kinh doanh hiện nay. Cụ thể:

+ Nới lỏng các quy định về tỷ lệ cho vay tối đa. Hiện nay mức quy định cứng là 70% giá trị phương án, dự án (Khoản 4 Điều 2 Quyết định 68/2013/QĐ-TTg, Điều 6 Quyết định 1050/QĐ-NHNN) trong một số trường hợp sẽ khó khăn cho người đi vay. Bởi vì vốn tự có của người sản xuất thường được phân bổ vào chi phí nhân công của người trong gia đình, chi phí đầu tư cải tạo diện tích đất, mặt nước canh tác. Hầu hết các loại chi phí này đều không có tham chiếu rõ ràng gây khó khăn cho ngân hàng trong đánh giá thẩm định. Nếu việc đánh giá chỉ phù hợp với các quy định về an toàn vốn nhưng không phù hợp với thực tế, người đi vay sẽ không vay được đủ số vốn cần thiết.

+ Bên cạnh các quy định bắt buộc về năng lực của người tham gia liên kết, nên quy định bắt buộc về việc sử dụng công cụ thanh toán không dùng tiền mặt với các giao dịch trong chuỗi. Cụ thể là các thanh toán theo hợp đồng cung ứng vật tư, hợp đồng thu mua và các khoản ứng trước theo các hợp đồng trên. Trong các quy định nên bắt buộc người tham gia trong mô hình liên kết phải mở tài khoản thụ hưởng tại ngân hàng cho vay thí điểm.

+ NHNN nên quy định mức cho vay tối đa không có tài sản bảo đảm đối với các phương án, dự án sản xuất kinh doanh theo mô hình chuỗi giá trị. Đối với bất động sản đề nghị cập nhật giá trị đất phù hợp với giá trị thị trường. Đối với các tài sản là tư liệu lao động sử dụng trong sản xuất cá tra có giá trị cao như tài sản hình thành trên đất, thiết bị, máy móc... đặc biệt là các thiết bị công nghệ cao cần có quy


định cấp chứng nhận quyền sở hữu hợp pháp cho người mua cũng như các quy định cụ thể trong việc chuyển nhượng để ngân hàng có căn cứ tiếp nhận các động sản đó làm tài sản bảo đảm.

- Ban hành cơ chế hỗ trợ đặc thù cho khách hàng tham gia vào tín dụng theo chuỗi giá trị ngành cá tra

So với cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn, lãi suất cho vay áp dụng đối với tín dụng theo chuỗi giá trị ngành cá tra vẫn chưa hấp dẫn. Đây là mô hình cho vay mới, để khuyến khích khách hàng, nhất là các hộ nông dân tham gia thì cần có cơ chế hỗ trợ lãi suất. NHNN cần dành nguồn vốn ưu đãi để đầu tư cho mô hình cho vay này nhằm tạo sự chủ động và nâng cao hiệu quả trong việc triển khai cho vay. Lãi suất cho vay không nên để ở mức cố định mà nên gắn với lãi suất cho vay lĩnh vực nông nghiệp nông thôn với một biên độ nhất định để giảm độ trễ chính sác h khi NHNN điều chỉnh giảm lãi suất cho các lĩnh vực ưu tiên.


KẾT LUẬN

Mô hình sản xuất kinh doanh theo chuỗi giá trị đối với ngành cá tra tại Việt Nam giải quyết được những khó khăn, vướng mắc tồn tại trong suốt những năm trước đây, cụ thể: Gắn kết chặt chẽ giữa người nông dân và doanh nghiệp nhằm tạo sự phát triển ổn định và bền vững; khẳng định thương hiệu cá tra Việt Nam trên thị trường thế giới. Thị trường tiêu thụ ngày càng đòi hỏi khắc khe về kỹ thuật, truy xuất nguồn gốc, các tiêu chuẩn quốc tế liên tục được đặt ra là một thách thức lớn cho ngành cátra. P hát triển mô hình sản xuất này là tiền đề cần thiết để ngành cá tra khẳng định vị thế quốc gia trên trường thế giới, nâng cao hiệu quả hoạt động và tăng thu nhập cho người sản xuất, nhất là hộ nông dân.

Đối với ngành cá tra nói riêng và ngành nông nghiệp Việt Nam nói chung, mô hình cho vay này sẽ giải quyết được những khó khăn về vốn, tạo tiền đề tài chính vững chắc để hoạt động sản xuất kinh doanh được hiệu quả hơn, gắn kết chặt chẽ giữa người nông dân nuôi cá và doanh nghiệp chế biến, chia sẻ hài hòa lợi ích cũng như rủi ro, giúp cho sản phẩm cá tra, một sản phẩm thế mạnh của Việt Nam, có điều kiện phát triển ổn định, bền vững. Vì thế, việc triển khai tín dụng theo chuỗi giá trị đối với ngành cá tra tại Việt Nam là cần thiết và phù hợp với xu thế phát triển chung trên thế giới.

Sau bốn năm triển khai, có thể thấy tín dụng theo chuỗi giá trị ngành cá tra đã có nền tảng ban đầu trong việc chuyển đổi từ ý tưởng đến chương trình thí điểm và đưa vào triển khai thực tế. Tuy nhiên, dư nợ tín dụng của mô hình cho vay này chưa tương xứng với quy mô và tiềm năng của ngành cá tra. Trong khi triển khai, ngân hàng đã gặp khó khăn trong việc tìm kiếm khách hàng do khách hàng chưa có nhiều hiểu biết về cho vay theo chuỗi và họ đang quen với mô hình tín dụng truyển thống. Đồng thời, những khó khăn về tính pháp lý của tài sản bảo đảm, thiếu hụt trọng tài thương mại trong xử lý hợp đồng mua bán không được các bên tuân thủ, vấn đề về bảo hiểm ngành nông nghiệp, quy định hướng dẫn cụ thể từ NHNN là những khó khăn rất lớn khiến ngân hàng còn e dè trong việc tiếp tục triển khai tín dụng theo chuỗi giá trị ngành cá tra. Để khắc phục điều này cần có sự tham gia của các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương, sự phối hợp của các hiệp hội ngành cá tra và từ các trường đại học, viện nghiên cứu. Từ đó, chuỗi giá trị ngành cá tra mới hoạt động có hiệu quả, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế, nâng cao chất lượng sản phẩm cá tra đầu ra. Đồng thời, nguồn vốn tín dụng đầu tư của ngân hàng vào chuỗi giá trị ngành cá tra mới đạt hiệu quả cao.

Thực hiện mục tiêu, nội dung, phạm vi nghiên cứu, luận án đã hoàn thành các vấn đề chính sau:


- Hệ thống hóa lý luận liên quan đến tín dụng theo chuỗi giá trị ngành cá tra. Trong đó, luận án đã nêu rõ được sự khác biệt giữa tín dụng theo chuỗi giá trị và tín dụng truyền thống, trình bày quy trình thực hiện, xác định bộ chỉ tiêu đánh giá hiệu quả triển khai và xác định các nhân tố ảnh hưởng đến công tác triển khai.

- Thống kê các chính sách, văn bản pháp luật có liên quan. Khái quát tình hình triển khai tín dụng theo chuỗi giá trị ngành nông nghiệp và phân tích sâu tình hình triển khai tín dụng theo chuỗi giá trị ngành cá tra giai đoạn 2014 – 2018 ở các góc độ: kết quả đạt được, tồn tại và nguyên nhân của tồn tại, đánh giả rủi ro, cơ chế chính sách liên quan và một số nội dung khác.

- Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến việc triển khai tín dụng theo chuỗi giá trị ngành cá tra, trong đó nhóm nhân tố hữu hình và lợi ích có tác động lớn đến khả năng phát triển của mô hình vay vốn.

- Sau khi nêu lên định hướng phát triển tín dụng theo chuỗi giá trị ngành cá tra Việt Nam, tác giả đề xuất nhóm giải pháp cho NHTM và kiến nghị cho các Bộ, Ban, Ngành và NHNN. T rong đó tác giả nhấn mạnh vai trò của Nhà nước trong việc ban hành hành lang pháp lý chặt chẽ, áp dụng bảo hiểm nông nghiệp, nâng cao khả năng tiếp cận vốn của Hợp tác xã, quy định về giám sát dòng tiền và chế tài cho hợp đồng mua bán. Về phíaNHTM, tác giả đưa ra các nhóm giải pháp về chính sách, lựa chọn chủ thể đại diện, bán chéo sản phẩm, mở rộng quy mô khách hàng và tăng cường năng lực của cán bộ ngân hàng trong tín dụng theo chuỗi giá trị ngành cá tra.

Tín dụng theo chuỗi giá trị ngành cá tra nói riêng và ngành nông nghiệp nói chung là lĩnh vực khá mới tại Việt Nam. Trong quá trình thực hiện, dưới sự hướng dẫn của các Nhà khoa học, bên cạnh việc nghiên cứu các đề tài, luận án, bài viết có liên quan, trong đó chủ yếu là các tài liệu nước ngoài, thì tác giả đã nỗ lực trong việc tiếp cận số liệu từ các cơ quan chức năng, tham gia khảo sát thực tế nhiều lần ở khu vực ĐBSCL để nắm bắt tình hình triển khai thực tế và thực hiện khảo sát phục vụ cho việc hoàn thiện luận án. Đồng thời, tác giả đã chủ động tham gia đề tài nghiên cứu cấp NHNN với cùng chủ đề để có cơ hội nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này. Tác giả mong rằng luận án sẽ là một tài liệu hữu ích cho hoạt động tín dụng theo chuỗi giá trị ngành cá tra Việt Nam phát triển ổn định và bền vững.

Xem tất cả 209 trang.

Ngày đăng: 01/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí