Tìm hiểu chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Trung Quốc và một số kinh nghiệp đối với Việt Nam trong tiến trình hội nhập - 13


Tiếp cận thị trường đang là những khó khăn chung của doanh nghiệp, đặc biệt là DNV&N. Để thực hiện công việc này cần có nỗ lực từ nhiều phía: từ phía doanh nghiệp cần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá, thêm vào đó có những nỗ lực của các tổ chức xúc tiến thương mại, hoặc các cơ quan chính phủ. Mấy năm trở lại đây, Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp chủ động phát triển các thị trường ngoài nước, giảm bớt các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, xoá bỏ mạnh các đầu mối cản trở hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập, nhiều DNV&N chưa sẵn sàng mở rộng thị trường, thiếu khả năng tiếp cận nguồn thông tin về các đối tác và bạn hàng ở nước ngoài, thiếu hiểu biết về luật thương mại quốc tế, chưa chú trọng đổi mới quy trình công nghệ, áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo các tiêu chuẩn quốc tế.

Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng thị trường chứng khoán, cho phép xoá bỏ hệ thống hạn ngạch về niêm yết và người bảo lãnh phát hành sẽ quyết định thời điểm và việc định giá các chứng khoán mới để tạo điều kiện cho các DNV&N tiếp cận nguồn vốn trên thị trường.

2.3. Đồng bộ hệ thống chính sách hỗ trợ giúp phát triển DNV&N


a) Chính sách về vốn: Thiếu vốn vẫn là những khó khăn chủ yếu của các doanh nghiệp, thực tế số DNV&N được tiếp cận với vốn vay ngân hàng rất hạn chế, chủ yếu tập trung ở các loại hình doanh nghiệp nhà nước. Tình hình này dẫn đến việc phần lớn các DNV&N phải huy động vốn của các tổ chức tài chính với lãi suất cao hơn so với lãi suất chính thức của ngân hàng. Vì vậy để tạo điều kiện cho các DNV&N tiếp cận thuận lợi hơn với vốn tín dụng ngân hàng, cần phải có chính sách hạ lãi suất tín dụng, đơn giản hoá các thủ tục cho vay, tạo khung pháp lý cần thiết cho hoạt động tín dụng ngân hàng. Trong năm 2004, thủ tướng chính phủ đã ra Quyết định số 115/2004/QĐ-TTG về việc sửa đổi, bổ sung quy chế thành lập, tổ chức và hoạt động của quỹ bảo


lãnh tín dụng cho DNV&N ban hành kèm theo Quyết định số 193/2001/QĐ- TTG ngày 20 tháng 12 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ. Tháng 2 năm 2006, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư hướng dẫ một số nội dung về góp vốn thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho các DNV&N. Tuy nhiên, do văn bản mới ban hành nên số lượng và lượng vốn các quỹ bảo lãnh tín dụng cũng như các khoản vay của DNV&N được bảo lãnh chưa nhiều. Cho đến thời điểm đầu năm 2006 mới chỉ có một số rất ít tỉnh thành có quyết định thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNV&N song việc đi vào hoạt động còn gặp nhiều khó khăn do chưa huy động đủ vốn cần thiết. Hầu hết các địa phương khác không mặn mà lắm với việc hình thành quỹ. Nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa việc thiết lập các quỹ này và nhanh chóng đưa vào hoạt động, đồng thời lập thêm các quỹ tái bảo lãnh tín dụng để phân tán rủi ro, khiến các tổ chức bảo lãnh yên tâm trong hoạt động của mình. Bên cạnh đó cũng cần khuyến khích các doanh nghiệp cùng góp vốn hình thành quỹ giúp đỡ lẫn nhau. Mô hình Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNV&N và các Quỹ hỗ trợ tín dụng nông thôn RCCs đã được Trung Quốc thực hiện và hoạt động rất thành công, giải quyết được phần nào những khó khăn về vốn cho các DNV&N Trung Quốc trong quá trình hội nhập. Ngoài ra cần trích ngân sách để thành lập và mở rộng các loại hình tín dụng đa dạng như Ngân hàng phát triển DNV&N, Quỹ hỗ trợ phát triển, Quỹ hỗ trợ DNV&N...

Đồng thời để các DNV&N có thể tiếp cận được vốn từ các ngân hàng thương mại nhà nước, Nhà nước cần hỗ trợ đào tạo cho doanh nghiệp có khả năng lập được những kế hoạch kinh doanh có tính khả thi để thuyết phục ngân hàng cho vay vốn. Về phía ngân hàng, Nhà nước cần nghiên cứu áp dụng chính sách ưu đãi, đảm bảo lợi nhuận mà các ngân hàng thương mại thu được từ các khoản vay của các khách hàng là DNV&N.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

b) Chính sách về mặt bằng kinh doanh: Hiện nay hầu hết các DNV&N đều thiếu mặt bằng kinh doanh để thành lập cơ sở mới hoặc mở rộng sản xuất. Trong khi nhiều DNV&N được giao đất và sử dụng không có hiệu quả, đất đai bỏ hoang hoặc sử dụng không đúng mục đích thì các DNV&N (trong đó chủ yếu là các DNV&N thuộc khu vực tư nhân) lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm mặt bằng kinh doanh với chi phí rất lớn. Ngay cả khi doanh nghiệp có mặt bằng sản xuất thì việc lo đủ các thủ tục cần thiết để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để có thể thế chấp, cầm cố cũng đòi hỏi phải tốn nhiều công sức và tiền bạc. Điều này đã phần nào hạn chế nguồn vốn đầu tư vốn đã hạn hẹp của doanh nghiệp. Vì vậy cần thực hiện các chính sách phù hợp để cải thiện tình trạng thiếu mặt bằng sản xuất, đồng thời bảo vệ môi trường.

Nhằm giải quyết vấn đề về mặt bằng cho SXKD cho các doanh nghiệp nói chung và các DNV&N nói riêng, Luật Đất đai năm 2003 và các Nghị định hướng dẫn của Chính phủ số 180/2004/NĐ-CP, 181/2004/NĐ-CP, 188/2004/NĐ-CP...đã quy định một số vấn đề cụ thể. Nhưng đến nay, việc thực hiện các quy định của Luật Đất đai 2003 và các Nghị định hướng dẫn đều đang được triển khai và cũng còn gặp nhiều khó khăn. Để tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận đất và có thể sử dụng đất làm tài sản thế chấp, cầm cố vay vốn từ các tổ chức tín dụng, trong thời gian tới tập trung giải quyết một số vấn đề sau:

Tìm hiểu chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ Trung Quốc và một số kinh nghiệp đối với Việt Nam trong tiến trình hội nhập - 13

Thứ nhất, đổi mới các thủ tục giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các thủ tục giao dịch có liên quan đến sử dụng đất theo hướng cải cách thủ tục hành chính; Thiết lập một hệ thống cơ quan đăng ký đất đai thống nhất trên toàn quốc với chức năng đăng ký và đăng ký lại các giao dịch về đất, hoặc có khi có sự thay đổi trong hồ sơ địa chính do các quyết định hành chính gây ra.


Thứ hai, hình thành một hệ thống quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đảm bảo tính ổn định, chắc chắn, công khai, minh bạch đáp ứng yêu cầu của người sử dụng đất, đồng thời giúp Nhà nước quản lý được đất đai thông qua việc xác định mục đích sử dụng đất; Xây dựng được hệ thống tổ chức phát triển quỹ đất, giải quyết những vướng mắc trong giải phóng mặt bằng, đền bù, tái định cư và thu hồi đất đối với những khu vực sử dụng đất sai mục đích, không có hiệu quả, lãng phí tài nguyên đất. Thực chất là đẩy mạnh việc triển khai thực hiện Luật Đất đai và các Nghị định hướng dẫn Luật này.

c) Chính sách công nghệ và hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực: trình độ công nghệ hiện nay của các doanh nghiệp được đánh giá là lạc hậu hơn so với các nước trên thế giới từ 3 - 4 thế hệ. Do công nghệ lạc hậu, những hậu quả kéo theo là chất lượng sản phẩm thấp, khả năng cạnh tranh kém, thêm vào đó là những quy trình công nghệ lạc hậu thường xuyên gây ô nhiễm môi trường ở mức độ cao. Để tăng cường khả năng đổi mới công nghệ cần có các giải pháp đổi mới phương thức thay đổi công nghệ, tạo áp lực cần thiết để doanh nghiệp thay đổi công nghệ (ví dụ như quy định thời gian đình chỉ đối với các doanh nghiệp sử dụng công nghệ quá lạc hậu...) và tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp đổi mới công nghệ (về vốn, thông tin...) nâng cao chất lượng các dự án đầu tư đổi mới công nghệ. Bên cạnh đó, cần khuyến khích việc hợp tác và chia sẻ công nghệ giữa các doanh nghiệp có quy mô khác nhau, phát triển có hiệu quả các chương trình nghiên cứu có khả năng ứng dụng thương mại, khuyến khích phát triển mô hình liên kết giữa các viện nghiên cứu, trường đại học, trường kỹ thuật với doanh nghiệp.

Chính sách khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ, định hướng phát triển công nghệ là một nội dung hết sức quan trọng, song muốn đổi mới công nghệ ngoài việc tăng cường đầu tư phải đặc biệt chú trọng bồi dưỡng đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Mặt khác, các chính sách về lao động,


đào tạo và việc làm cũng cần có những định hướng rõ rệt, nhằm khuyến khích người lao động có kỹ năng nâng cao trình độ tay nghề, kỹ năng, nghiệp vụ và cải thiện các điều kiện lao động, yên tâm làm việc ở mọi lĩnh vực, hạn chế sự chênh lệch về kỹ năng và trình độ giữa các khu vực doanh nghiệp. Ở Trung Quốc, chính phủ đã hỗ trợ về vốn cho các dự án công nghệ và thành lập các trung tâm nghiên cứu đổi mới công nghệ và hỗ trợ DNV&N đổi mới công nghệ. Việt Nam hiện tại vẫn chưa có các trung tâm hỗ trợ DNV&N đổi mới công nghệ, chính phủ cần xúc tiến để thành lập những vườn ươm công nghệ, khuyến khích các trường đại học và các trung tâm nghiên cứu liên kết với doanh nghiệp để nghiên cứu các dự án công nghệ, điều này khiến các công trình nghiên cứu có giá trị thực tiễn hơn.

d) Phát triển các tổ chức xã hội nghề nghiệp: Tổ chức xã hội nghề nghiệp như các hiệp hội, các câu lạc bộ, các tổ chức phi chính phủ khác là một hình thức gia tăng sức mạnh của các doanh nghiệp. Các tổ chức này vừa là nơi các doanh nghiệp gặp gỡ trao đổi kinh nghiệm vừa là những tổ chức nói lên tiếng nói bảo vệ quyền lợi và đệ trình những yêu cầu của các doanh nghiệp trong các diễn đàn kinh tế. Tuy nhiên để đảm bảo hoạt động của các tổ chức có hiệu quả cần thống nhất nhận thức và hành động, vì lợi ích của cả hệ thống, hợp sức trong việc đấu thầu, đấu giá cung ứng hàng hoá, chống hành vi gian lận, độc quyền, tranh chấp thị trường xâm phạm lợi ích của các doanh nghiệp. Ngoài ra, hiệp hội có thể cùng nhau thực hiện liên kết, trợ giúp vốn, làm các dịch vụ môi giới, tư vấn, giúp nhau kỹ năng quản lý, áp dụng công nghệ mới, đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động. Để tạo thuận lợi cho các hiệp hội hoạt động, Nhà nước cần quy định một hành lang pháp lý rõ ràng cho sự thành lập và hoạt động của hiệp hội bằng cách quy định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của hiệp hội và mối quan hệ của hiệp hội với các cơ quan nhà nước. Trước đây, Việt Nam chỉ có Trung tâm hỗ trợ phát triển DNV&N của VCCI


là tổ chức chính thức mang tính quốc gia hỗ trợ DNV&N. Năm 2006 vừa qua, Trung tâm hỗ trợ Phát triển DNV&N 1 đã được thành lập trực thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, và Điều lệ tổ chức và hoạt động của Trung tâm cũng được ban hành kèm theo Quyết định số 695/QĐ-TĐC ngày 13/7/2006 của Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng. Trung tâm này có năng hỗ trợ phát triển nhằm tăng cường hiệu quả sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ cho các DNV&N. Như vậy trung tâm này là một tổ chức chính thức của chính phủ, hỗ trợ các DNV&N trên nhiều phương diện. Trước mắt, cần đẩy mạnh việc xây dựng cơ cấu tổ chức để nhanh chóng đưa trung tâm vào hoạt động đúng như chức năng và nhiệm vụ của nó. Cơ quan quản lý, cụ thể là Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng cần thường xuyên rà soát, kiểm tra tính hiệu quả của Trung tâm.

e) Cùng với việc phát triển các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức tư vấn cũng đóng góp vai trò quan trọng trong sự phát triển của doanh nghiệp. Hoạt động tư vấn là loại hình dịch vụ cao cấp chủ yếu do các doanh nghiệp yêu cầu, nhằm khai thác chất xám của các chuyên gia trong một số lĩnh vực để giúp đỡ doanh nghiệp giải quyết các vướng mắc trong kinh doanh. Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy mở mang ngành dịch vụ tư vấn với việc hình thành khung pháp lý cho các hoạt động dịch vụ tư vấn, nghiên cứu các định chế về hoạt động uỷ quyền, tạo điều kiện cho các công ty tư vấn nâng cao kiến thức nghề nghiệp, tạo điều kiện giao lưu nghề nghiệp trao đổi kinh nghiệm và phát triển mối quan hệ giữa các nhà tư vấn, giúp nhau nâng cao chất lượng tư vấn và đảm bảo khuyến khích hoạt động lành mạnh trong tổ chức tư vấn. Đồng thời để các hoạt động tư vấn có chất lượng, nhà nước cần thẩm tra trình độ của các trung tâm tư vấn thông qua các quy định điều kiện thành lập.


f) Góp phần tạo dựng tinh thần kinh doanh trong xã hội: Tinh thần kinh doanh là một phần tinh hoa của giá trị văn hoá dân tộc. Chuyển giao từ một nền kinh tế nông nghiệp sang cơ chế thị trường, lấy cạnh tranh làm đòn bẩy phát triển cơ bản, với những quan điểm mới về giá trị, tinh thần kinh doanh được thể hiện dưới những bản lĩnh ứng xử năng động, linh hoạt, năng lực kinh doanh sáng tạo, quan tâm đến lợi ích tương hỗ trong cộng đồng, có tinh thần trách nhiệm đối với xã hội về giá trị sản phẩm hàng hoá mà mình sản xuất và cung ứng, có ý thức về quan hệ nhân văn với người lao động trong doanh nghiệp. Để tạo được tinh thần kinh doanh trong doanh nghiệp cũng cần có thời gian và năng lực tiếp thu tri thức nghề nghiệp của các doanh gia, cùng với sự nhìn nhận đúng đắn của công chúng về vai trò của tầng lớp thương gia trong xã hội.

Nhằm khơi gợi tinh thần kinh doanh, phát triển nền văn hóa doanh nghiệp, cần thiết phải triển khai các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, phổ biến tinh thần doanh nghiệp, ý chí kinh doanh và làm giàu tới mọi đối tượng, đặc biệt là thí điểm thực hiện việc đưa các bài học về kinh doanh vào chương trình học ở trường phổ thông, đại học, dạy nghề; đẩy mạnh triển khai trợ giúp đào tạo khởi sự doanh nghiệp.

g) Hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu: Các cơ quan thương mại Việt Nam tại nước ngoài có thể giúp doanh nghiệp trong việc tìm hiểu thị trường, đối tác, tổ chức các hoạt động như triển lãm, hội chợ nhằm quảng bá cho các sản phẩm của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Chính phủ cần đẩy nhanh sự thiết lập và nâng cao hệ thống đảm bảo chất lượng của các ngành xuất khẩu, đặc biệt là tiêu chuẩn chất lượng quốc tế; tích cực kiểm tra chất lượng và giám sát hàng xuất khẩu, dần dần nâng cao danh tiếng chất lượng của sản phẩm Việt Nam và chấm dứt sự cạnh tranh về giá. Đồng thời Nhà nước cần có chính sách ưu đãi để các ngân hàng và tổ chức tín dụng cấp tín


dụng xuất khẩu cho các DNV&N và có các biện pháp thưởng xuất khẩu để khuyến khích doanh nghiệp, ngoài ra cũng nên hỗ trợ và khuyến khích để doanh nghiệp xây dựng các chi nhánh kinh doanh, doanh nghiệp thu mua, thiết lập mạng lưới mua bán ở nước ngoài để chiếm lĩnh thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, các bộ ngành liên quan thúc đẩy hơn nữa việc xây dựng các cổng thương mại điện tử để các doanh nghiệp có thể quảng cáo, mời hàng, ký kết hợp đồng với các đối tác nước ngoài một cách nhanh chóng cũng như nắm bắt nhanh nhu cầu thị trường.

2.4. Cần tuyên truyền để các DNV&N Việt Nam có cái nhìn toàn diện về hội nhập kinh tế quốc tế

Theo thông tin từ Website Bộ tài chính năm 2006, có đến 10% doanh nghiệp chưa biết gì về hội nhập, số còn lại dù có nhưng vẫn còn rất nhiều hạn chế. Không những thế, các doanh nghiệp nhận thức về nội dung, bước đi, lộ trình hội nhập của các cấp còn giản đơn. Trong khi hầu hết các doanh nghiệp lớn, các tổng công ty lớn đã có sự nghiên cứu, chuẩn bị những bước đi thích hợp với tiến trình hội nhập nói chung và lộ trình cắt giảm thuế nói riêng thì các DNV&N Việt Nam lại nhận thức về hội nhập còn khá hạn chế, chưa chủ động nghiên cứu, tìm hiểu về cam kết hội nhập, chưa khai thác được tiếng nói của hiệp hội, đặc biệt là khâu xây dựng chiến lược đầu tư còn yếu. Trước thực tế như vậy, dù chính phủ có các chính sách hỗ trợ nhưng doanh nghiệp không chủ động thì cũng sẽ rất khó để tồn tại. Do vậy, chính phủ phải thiết lập một hệ thống thông tin tuyên truyền không những các thông tin chính sách, pháp luật mà còn cả thông tin về tiến trình hội nhập. Đồng thời các cấp bộ ngành cũng nên thường xuyên tổ chức những cuộc hội thảo với sự tham gia trực tiếp của các chuyên gia, các nhà phân tích, các nhà lãnh đạo và đặc biệt là các nhà quản lý doanh nghiệp.

Xem tất cả 112 trang.

Ngày đăng: 07/01/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí