Tiếng cười trong thơ Tú Mỡ - 9

Người nhè mặt Ních nhổ phì, Tiếng hô “Chó Mĩ cút đi vang ầm”.

Nhà thơ mỉa mai bản chất của đế quốc Mĩ là Thằng sen đầm quốc tế: Đế quốc Mĩ cầm dùi cui nguyên tử,

Đóng vai sen đầm ở “thế giới tự do”. Nhưng thực ra nó là trùm sỏ côn đồ, Chuyên quấy rối để giở trò ăn cướp.

Cũng như thực dân Pháp, bị thua ở chiến trường Việt Nam, Mĩ “Tháo dạ đổ vạ cho rươi”, cũng tìm cách chối quanh và tự bào chữa, lộ rõ bản chất tráo trâng. Tú Mỡ nhè vào đó mà “đả” và cười:

Giặc Mĩ thua cay, khéo đổ thừa Tại trời xỏ lá, tại trời mưa.

Phi cơ ướt cánh bay thiên thẹo?

Lính bộ trơn đường ngã chỏng chơ?...

…Mồm thằng Mắc cũng quàng xiên tệ, Tháo dạ lèo lèo đổ vạ rươi.

Đối với tướng tá Pháp và Mĩ, nhà thơ trào phúng lại có dịp trổ tài biếm họa của mình. Tướng tá chỉ huy là những kẻ tiêu biểu nhất cho bản chất tàn bạo, xấu xa được che đạy, lừa mị bằng đạo đức giả dối, nhân nghĩa, văn minh giả hiệu của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Theo GS Hà Minh Đức, thì “sở trường của Tú Mỡ trong việc khắc hoạ nhân vật phản diện có dịp được thể hiện trực tiếp qua việc vạch mặt những tên tướng giặc” [11, 95]. Các tướng Pháp Đờ- lát Đờ Tát-xi-nhi, tướng Lơ-cơ-léc, tướng Sa-lăng, tướng Na-va, tướng Đờ-cát… đều có tranh biếm họa; và từ Tổng thống Mĩ Ai-xen-hao-ơ , Gion-xơn, Ních-xơn, Ken-nơ-đi… đến các Đại sứ Ca-bốt Lốt, Ngoại trưởng Mĩ Đa-lét, các tướng Tay-lơ, Nâu- tinh… cũng được điểm mặt chỉ tên và bôi gio trát trấu.

Tú Mỡ, với kinh nghiệm của một nhà báo, đã khai thác thông tin địch một cách mau lẹ. Chính vì vậy, “hầu như đủ mặt bọn tướng chỉ huy của thực

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

dân Pháp đã được nhà thơ “đóng đinh” lên bức tường lịch sử văn học trào phúng với đủ bộ dạng và tính cách” [28,225].

Tú Mỡ chỉ ra phẩm chất nổi bật của tướng giặc: Tướng tá thực dân hay đế quốc thảy đều huênh hoang, khoác lác. Tiêu biểu là tướng dòng dõi quý tộc Đờ-lát Đờ Tát-xi-nhi. Nếu sư tử nó biết sự thật ở trận đồng bằng Bắc Bộ là quan Pháp lo chạy thoát thân, quân quăng súng đầu hàng, thì nó sẽ tức giận trước sự “gian hùng”, “xưng xưng” của tướng Tát-xi-nhi mượn xằng oai của nó để rao to “Quân đội Pháp đánh hăng, chống cự/ Như một đoàn sư tử oai linh”!

Tiếng cười trong thơ Tú Mỡ - 9

Tương tự, tướng Na-va là “đứa học trò tồi” của hắn Tát-xi-nhi cũng cố báo ơn thầy bằng màn Na-va thắng trận bằng mồm:

Tuyên truyền, khoác lác bô bô, Té ra thắng trận toàn do lỗ mồm.

Nà Sản bỏ trại, bỏ đồn,

Lùa quân thục mạng chạy dồn về xuôi.

Đầu trò kế hoạch rút lui,

Cũng là đại thắng, tức cười đến nôn!

Nắm bắt cả lời nói, thói quen của tướng giặc, Tú Mỡ chọn đó làm một “cứ điểm” và rầm rộ mang đội quân tiếng cười đến mà mỉa mai, mà phê phán, mà đả kích. Tát-xi-nhi thường hay nói đến danh dự - thói quen của quý tộc Pháp – và hô hào “theo ta, ta dẫn đường danh dự”. Danh dự đó được Tú Mỡ sắc sảo chỉ rõ cái “danh dự nhà ông” chỉ là “xoàng”, là “sỉ nhục”, là sự “sút mấy lần”, là “hèn nhát tệ”- cuối cùng chỉ là “sáo mép thôi”. Bởi ông ta:

-Làm tôi lũ thực dân ô trọc

Cầm quân phi nghĩa đánh nhau thuê.

-Mà nào đánh chác có nên thân Bao phen xuất trận bao phen bại.

-Con chết, ông lo làm quốc lễ Bạn đồng ngũ chết, ông thây kệ.

(Con đường danh dự của Tát-xi-nhi)

Ở trên, Tú Mỡ châm biếm tướng giặc bằng cách dùng “gậy ông đập lưng ông”, lấy lời lẽ của chúng đánh lại chúng. Tú Mỡ còn châm biếm chúng bằng cách lật tẩy con đường “rút lui trong danh dự” của kẻ bại tướng. Sự thất bại thảm hại của Tát-xi-nhi trên chiến trường Việt Nam được kể vui bằng “Câu chuyện “tướng đi ỉa””, vì thua mà không dám nhận là thua nên phải… bị kiết lị, phải “cắp đít về Tây… ị”! Trước khi chết vì bị “tam khí” (hai lần thua đau, con trai chết trận) như Chu Du ức mà chết, hắn “dối dăng dối dít” với tướng Sa-lăng là phải giữ được Hòa Bình, thì Tú Mỡ vạch mặt:

Những thằng mặt ngựa đầu trâu Còn danh dự chó gì đâu mà rằng!

(Dối dăng và thề thốt) Tướng Pháp, từng tên một, hết Sa-lăng bị thải hồi lại Na-va bị thải hồi.

Chúng bị Mĩ chửi, Tây la, phải vờ giả điếc và chây mặt ra mà phớt. Còn Tú Mỡ, ông không bỏ sót một sự việc nào, luôn có thơ cười vào tận mặt chúng!

Đối với bọn đầu sỏ đế quốc Mĩ, nhà thơ trào phúng đả kích từ chóp bu trở xuống. Bao nhiêu đời tổng thống Mĩ là bấy nhiêu kẻ hiếu chiến và lừa dối. Tú Mỡ bêu riếu bộ mặt hãm tài của Ai-xen-hao Tổng thống Mỹ tên hèm là Ách/ Tên tuổi gì như cái đếch người ta!... (Ách). Ken-nơ-đi là kẻ Lừa dân dối chúa, hắn “Chực đẩy loài người kề miệng hố/ Thử bom nguyên tử, lẩn tài binh”. Tổng thống Giôn-xơn được goi là “tổng côn đồ”, bởi Chính danh thủ phạm là thằng Giôn-xơn “Quán quân về giết người/ Lật lọng và bịp đời/ Ăn gian và nói dối/ Nó đểu nhất trần ai”.

Đối với tổng thống Giôn-xơn, Tú Mỡ có sự “biệt nhỡn”. Ông kể những Triệu chứng bệnh chó dại ở Giôn-xơn là mất ngủ, mơ hoảng, đau đớn quặn thắt, hay hoảng hốt… do bị thua đau ở Triều Tiên, Việt Nam. Hắn như “khỉ độc”, là Tổng Khẹc làm trò tườu cũng giỏi luận điệu tuyên truyền nhảm tin bại trận to thành thắng trận to (Để vỗ về quân, với mặt mình/ Tổng Giôn thưởng tướng với khao binh/ Người ta bịt mũi xua tay bảo/ “Đừng giở trò tườu, thối thối inh!”) Cho nên, Tú Mỡ miêu tả Bộ ngũ quan của Tổng Giôn

là của loài phi nhân: mắt tráo trâng như đui, tai chích chích chi chi như tai lòi, mồm là cái lỗ ăn gian nói dối, mũi chỉ thấy hơi đồng, tay bạch tuộc chuyên giết người!

Đả kích từ chóp bu xuống, Tú Mỡ không bỏ qua bọn người dưới trướng những Tổng thống lừa dân dối Chúa, khát máu hiếu chiến ấy. Đó là một loạt các tướng quan bất tài, khoác lác, hèn nhát. Căm ghét tột bực, Tú Mỡ tỏ ra đáo để khi Đổ bình vôi vào mồm Đa-lét (phương pháp “thủy thui” trong dân gian để trừ tà) - ngoại trưởng Mĩ chuyên gieo rắc thù hằn chiến tranh để buôn xương bán máu, lái súng làm giàu, là quái đản hung tinh của hòa bình thế giới. Tướng Tay-lơ là “ranh tướng” làm thượng sứ ở Sài Gòn, cũng một luận điệu như Na-va tuyên bố sẽ bình định miền Nam trong thời gian ngắn (“Ranh tướng” Tay-lơ). Đại sứ Ca-bốt Lốt cũng chỉ là Đại sứ “nhất ì nhì xéo” ở Việt Nam thôi (Sĩ bị chui rồi còn để tiếng/ Nhất ì nhì xéo mặt tài ranh…!)Tú Mỡ giễu cái tên của tướng giặc này như một tín hiệu của kẻ thua… quay lơ:

Nhắn bảo thằng Ken cho nó biết: Tay-lơ một vận với “quay lơ”.

(Tay-lơ cùng với “quay lơ” một vần)

Dưới trướng những tướng quan như thế, quân lính Pháp và Mĩ rất vô kỉ luật và thảm hại. Tú Mỡ có nhiều thái độ khác nhau với đối tượng này: căm hận đối với bọn lính hung bạo; thương hại bọn tù binh vốn bị bắt đi lính cho Pháp đang hối cải; ủng hộ tinh thần phản chiến của binh lính đối với chiến trường Đông Dương,…Nhưng về bản chất, Tú Mỡ khẳng định, lính Pháp cũng như lính đánh thuê, thảy đều là quân cướp nước, mang đạn bom đi… giữ hòa bình thế giới:

Binh lính chúng, những đồ mất dạy Đi đến đâu đốt cháy xóm làng,

(Sủa càn)

Tú Mỡ nhổ toẹt vào luận điệu tán nhăng bịp đời của bọn thực dân gọi bọn lính lê dương là “Chiến sĩ tự docủa thực dân:

Những thằng mũ đỏ bất lương

Đầu trâu mặt ngựa, rặt phường du côn.

Chính lính Tây cũng không được coi ra con người! Du kích Gia Lâm đánh vào chùa Tiêu, giết được hai lính Pháp, thì ngay hôm sau giặc sục vào làng, bắt thầy địa lí làm con tin, và đòi dân làng trao đổi:

Đền bù hai mạng Tây to

Nộp cho chúng đủ hai bò, mười kê…

…Đó xem ra khẩu khí thực dân Đầu trò chỉ cốt miếng ăn

Có coi cái mạng thằng quân ra gì.

(Mạng thằng Tây)

Bọn Việt gian gọi nịnh lính Tây là “quan lớn”. Chúng thực ra là một lũ hèn và đói khát: hai “quan kinh lí trong vùng/ đâu có gà vịt thời lùng về xơi”, bị du kích mai phục, thì giơ tay “Thôi thôi! Quan lớn xin hàng! Thôi thôi!” (Quan lớn xin hàng). Chúng vừa tàn ác dã man, vừa vô quân luật, đang trong thời kì “nước mẹ nó điêu linh”, nên thua trận liên tiếp đến nỗi xác lính không còn chỗ chôn (“Nghĩa địa ấy nay đà chật đất/ Không đủ nơi chôn cất xác Tây” – Chật đất).

Tú Mỡ có riêng một bài Lính Mĩ, cho thấy quân đội Mĩ rặt “bị thịt”, chỉ giỏi lên mặt với bọn ngụy, tề, chạm quân du kích thì “nổi sái kinh” và “tiến rất màn màn, rút rất nhanh”. Tinh binh này là “lính công tử bột”:

Đánh chẳng bằng ai, sự đã đành, Tinh thần “Tứ khoái” lại lừng danh, Ăn không bít tết sao trôi họng,

Ngủ chẳng bindinh khó ngả mình…

Hùng binh Mĩ xứng danh những người tiêu biểu cho một thế giới tự do, một đế quốc đô la và bom nguyên tử, đã dám chửi đổng bộ sậu Giôn-xơn – Mắc-na-ma-ra mỗi lần thua trận:

Tiên sư bố lũ mất tông!

Bay làm khốn khổ chúng ông thế này!

Đưa chúng ông đến nơi đây, Trời cao La Sát, đất dày Diêm Vương.

Đâu đâu cũng thể chiến trường, Không tiền tuyến, chẳng hậu phương, rối bù!

(Lính Mĩ chửi đổng)

Qua những bức chân dung biếm họa về bọn đầu sỏ và tướng tá, binh lính thực dân, đế quốc, Tú Mỡ không những phản ánh chân thực bản chất của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, mà còn thể hiện được lòng căm ghét chúng, căm ghét chiến tranh của nhân dân Việt Nam và nhân dân tiến bộ trên thế giới. Bộ mặt những tên đầu sỏ và tướng tá, binh lính Pháp, Mĩ xâm lăng đều là “đầu trâu mặt ngựa”, mất nhân hình và nhân tính, dù chúng cố dùng thủ đoạn bẻ cong dư luận và che giấu sự thật. “Những vần thơ trào phúng của Tú Mỡ theo sát những luận điệu tuyên truyền gian dối của địch, những hành vi khốn nạn của nó, lấy cái cười mà phỉ nhổ vào cái chính phủ phản động của địch, vào các tướng tá của nó… Tú Mỡ ứng biến rất nhanh, gỡ ngay những cái tốt mã dẻ cùi của địch mà vứt đi, để lòi ra cái thối nát ghê gớm của địch” [6,208].

2.2.2.2. Việt gian và bọn bù nhìn

Với bọn Việt gian và bù nhìn bán nước, ngòi bút đả kích của Tú Mỡ càng sắc sảo. Ông trút thái độ khinh bỉ, sự căm giận tột cùng lên chúng (Quái thai, Chính phủ bù nhìn). Bởi chúng sinh ra trên đất nước này, nhưng lại là bọn bán nước, buôn dân, cùng với giặc đẽo xương, rút ruột, bóp hầu nhân dân. Đầu trò bù nhìn là ông cựu hoàng Vĩnh Thụy, mong dựa vào Pháp dựng lại ngai tàn:

Nực cười Vĩnh Thụy, Bô-la,

Một đôi đĩ bợm giao hòa cùng nhau…

…Nay mai sắp trở về nhà,

Đẻ ra “chính phủ quốc gia bù nhìn”.

Lũ bè “chính trị ăn xin”,

Đang nghển cổ nhìn, đón đỡ quái thai.

(Quái thai)

Rồi Bô-la-éc bố mìn

Lập ra chính phủ bù nhìn Trung ương.

Đầu trò Vĩnh Thụy làm Vương,

Sáu Xuân làm tướng, với phường tay sai.

(Chính phủ bù nhìn)

Tú Mỡ không chỉ vạch mặt những tên vua bù nhìn, mà còn mỉa mai đến tận gốc rễ trò bán nước của chúng. Đối với Vĩnh Thuỵ, Tú Mỡ như một người “tọc mạch” kể lể hết từ việc ông ta ăn bánh mì Tây, học trường Tây từ thuở lên mười, lớn lên lại được Tây cưới vợ cho. Tú Mỡ phải kể thế để mọi người rõ như ban ngày vì sao Vĩnh Thuỵ cam tâm làm chó giữ, chim mồi cho Tây. Còn Bảo Đại là ông vua lo “hai mắt đăm đăm nhìn xa như trông vời cố quốc, vẻ mặt đượm một nét buồn sâu sắc!” (Tâm sự ông vua lo). Bảo Đại từ Hồng Kông sang Pháp để “chữa mắt rồng”, kì thực là để tìm cơ hội dựa dẫm Pháp. Tú Mỡ nhìn thấy bệnh của tên vua bù nhìn ấy bị “màng kéo mịt mù, thong manh, quáng gà” nên không nhận ra “giặc hoành hành dã man”, “nhìn thực dân Pháp hóa ra bạn hiền” (Chữa mắt rồng). Tú Mỡ lại tố cáo thêm một lần nữa: sự thật của chuyến sang Pháp đấu tranh vì độc lập là Bảo Đại đi ăn chơi, đánh bạc, thua ba triệu phơ-răng:

Hôm sau tờ báo “Tốc hành” Đăng tin sòng bạc ở thành phố Can

Mới thêm con bạc cóc vàng

Cựu hoàng Bảo Đại, cũng làng tay chơi Mùng 2 tháng 8 vừa rồi

Đã nướng một hồi ba triệu phơ-răng.

(Thằng ngốc phân trần)

Nhà thơ trào phúng nhận xét rất thẳng thừng mối quan hệ giữa bù nhìn với thực dân. Thực dân Pháp chỉ coi Vĩnh Thụy như con bài, hết giá trị sẽ loại đi ngay. Tú Mỡ nhìn trước sự thật ấy, ông lạc quan vẽ ra Tương lai của Vĩnh Thụy khi Pháp đá đít: xoay nghề đĩ đực, giở nghề quảng cáo thuốc đau mắt,

thuốc lậu giang của An Nam hoàng đế, làm nghề người gỗ rao hàng thợ may nhờ tấm thân giẻ cùi tốt mã. Còn với cựu hoàng Bảo Đại, Tú Mỡ nói thẳng thân phận của Bảo Đại chỉ như con chó săn cho Pháp (Bảo Đại với con chó cái). Tệ hơn, Bảo Đại chỉ là Chó ghẻ có mỡ đằng đuôi mà “hết săn, riềng mẻ hết đời gâu gâu”, vì bản chất của hắn là “Do quân cướp nước nặn lên/ Để yên thì đứng, bỏ liền quay lơ/ Chủ Tây bảo lắc, lắc bừa/ Thầy Mĩ bảo gật, gật như đầu chày”.

Tú Mỡ không báng bổ quàng xiên, ông có căn cứ khẳng định: Cả Vương lẫn tướng của cái chính phủ ấy đều là lũ mất tông, “Tiếng mẹ đẻ nói không thông/ Còn chi thương xót giống dòng Việt Nam”.

Trong bài thơ Việt gian cẩu trệ, Tú Mỡ kể tên một loạt bọn cầm đầu Việt gian là Phạm Văn Bính, Vũ Hồng Khanh, Phạm Văn Giáo, Nguyễn Huy Lai, Nguyễn Đệ, Nguyễn Văn Tâm và khẳng định đó là giống chó duy nhất “phũ phu con chó”. Cùng phe cánh chúng còn có Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu, Nguyễn Đắc Khê, Nguyễn Hữu Chí,… là lũ rước voi rày mả tổ. Nguyễn Đắc Khê tại Hội nghị Giơ-ne-vơ ăn nói hàm hồ về tư tưởng bảo hoàng đã bị người ta bôi gio trát trấu vào mặt (Đại biểu bù nhìn Việt gian ở Gio-ne-vơ). Bảo Đại và thằng Tâm là hai thằng ăn cắp, chúng đặt đủ thứ thuế thối tha, vô lý, ngược đời ở vùng tạm chiếm để xoay tiền: thuế xia, thuế béo, thuế bảo trinh, chứa thổ, đổ hồ (Hai thằng ăn cắp). Có lúc, Tú Mỡ phẫn nộ hét lên Vạc mặt thằng đốc phủ Tâm, Đá vào mõm thằng chó Tâm. Nhân “Đại hội quốc gia” của bọn bù nhìn Việt gian họp ở Sài Gòn (1953), Tú Mỡ gom chúng lại mà kết tội:

Đầu trò thằng đốc phủ Tâm,

Làm trùm mật thám bất nhân, quên nòi.

Thằng dối chúa, lừa đời, phản đạo Lê Hữu Từ, khoác áo thầy tu; Lại tên Đình Diệm họ Ngô,

Xưa kia phò Nhật, cũng đồ khuyển ưng.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 20/02/2024