chúng tôi đang hướng tới Kế hoạch hành động cụ thể cho 5 năm tới, bao gồm các biện pháp đưa Tiểu vùng trở thành điểm đến du lịch thống nhất và phát triển hạ tầng du lịch. Trong lĩnh vực nông nghiệp, chúng tôi đang thực hiện chương trình thúc đẩy thương mại nông nghiệp qua biên giới, đảm bảo an ninh lương thực và cải thiện đời sống cho người nông dân. Trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, chúng tôi đang triển khai thành công chương trình phòng chống bệnh dịch truyền nhiễm và Kế hoạch Phnôm Pênh về cung cấp các chương trình đào tạo về quản lý phát triển cho các quan chức Chính phủ.
Trong lĩnh vực môi trường, chương trình tổng thể nhằm đối phó với các thách thức về môi trường, bao gồm việc hình thành các hành lang đa dạng sinh học, đã được thực hiện. Trong lĩnh vực thương mại và đầu tư, chúng tôi đang đạt tiến bộ về tạo lập môi trường thuận lợi, ưu đãi và cạnh tranh tại các nước trong tiểu vùng thông qua việc thực hiện Khung chiến lược hành động, tạo thuận lợi thương mại và đầu tư tiểu vùng (SFA-TFI). Những thành quả trên đã tạo nên một nền tảng vững chắc, giúp duy trì và làm sâu sắc hơn hoạt động hợp tác trong thời gian tới.
Những cơ hội, thách thức và định hướng hành động trong tương lai
6. Những tiến bộ đạt được cho thấy hợp tác tiểu vùng là cơ chế hiệu quả đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, thách thức còn nhiều, bao gồm sự xuất hiện những rủi ro về y tế, nạn buôn lậu ma túy và buôn người, sự gia tăng các nguy cơ với môi trường như sự biến đổi khí hậu. Ðồng thời, cũng có rất nhiều cơ hội có thể tận dụng thành công thông qua các hoạt động hợp tác. Những cơ hội này bao gồm những xu hướng đang ngày càng chi phối ở cấp độ khu vực và toàn cầu, chẳng hạn sự mở rộng của các chuỗi cung ứng toàn cầu, sự gia tăng các khu vực thương mại tự do, những bước tiến mạnh mẽ hướng tới chủ nghĩa khu vực và sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng của khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
7. Những cơ hội và thách thức nảy sinh từ sự phát triển của tiểu vùng GMS đã được xem xét toàn diện trong quá trình đánh giá Khung chiến lược hợp tác 10 năm GMS, là văn kiện định hướng cho việc thực hiện các chương trình hợp tác GMS trong 5 năm qua. Chúng tôi hoan nghênh và thông qua những kết luận và khuyến nghị của bản đánh giá. Chúng tôi nhất trí với kết luận của bản đánh giá rằng Khung chiến lược vẫn phù hợp và là căn cứ vững chắc cho hợp tác khu vực trong 5
năm tới. Tuy nhiên, chúng tôi cũng tin tưởng rằng, như kết quả đánh giá đã cho thấy, cần có một số điều chỉnh đối với hợp tác GMS để tận dụng tốt hơn những cơ hội từ sự gia tăng toàn cầu hóa và hội nhập khu vực.
8. Vì vậy, trong khi quyết tâm đẩy mạnh và duy trì sự hợp tác để phát triển cơ sở hạ tầng Tiểu vùng, chúng tôi cũng đặt quan tâm lớn hơn tới các khía cạnh hợp tác nhằm: (i) Phát huy lợi ích của sự kết nối để nâng cao năng lực cạnh tranh; (ii) Ðẩy nhanh hơn nữa tốc độ giảm nghèo và cải thiện đời sống người dân; (iii) Chủ động đối phó những thách thức xuyên biên giới như sự lan truyền dịch bệnh truyền nhiễm, sự di cư lao động bất hợp pháp và suy thoái môi trường.
9. Nâng cao khả năng cạnh tranh về kinh tế và thúc đẩy tiến trình phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc phát huy hơn nữa các lợi ích của sự tăng cường kết nối sẽ là trọng tâm chính của hoạt động hợp tác trong những năm tới. Với địa thế nằm ở trung tâm Ðông Á và sự liền kề biên giới, hội nhập kinh tế khu vực không chỉ đem lại những lợi ích to lớn mà còn có tác dụng lan tỏa. Nâng cao năng lực cạnh tranh là nhân tố thiết yếu giúp hiện thực hóa tiềm năng của Tiểu vùng để trở thành trung tâm phát triển trong khu vực.
10. Ðể tăng cường khả năng cạnh tranh, chúng tôi sẽ phát huy những thành quả kết nối về giao thông nhằm hướng tới sự kết nối toàn diện và bền vững. Chúng tôi sẽ khuyến khích sự khai thác những lợi ích của việc cải thiện cơ sở hạ tầng Tiểu vùng nhằm thúc đẩy thương mại, đầu tư và du lịch. Chúng tôi sẽ đảm bảo việc sử dụng an toàn và hiệu quả cơ sở hạ tầng và đưa vào áp dụng các quy định và luật lệ phù hợp. Chúng tôi cũng sẽ từng bước thiết lập hạ tầng xã hội và môi trường để tăng cường tính cạnh tranh, thông qua việc phát triển nguồn nhân lực và khai thác bền vững môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Chúng tôi sẽ tiếp tục cùng nhau hướng tới sự liên kết các chính sách và chương trình liên quan tới những lĩnh vực nêu trên ở cấp độ địa phương, quốc gia và khu vực. Ðồng thời, chúng tôi cần hài hòa các dự án và sáng kiến tiểu vùng, bao gồm từ phát triển cơ sở hạ tầng tới phát triển nguồn nhân lực, từ thúc đẩy thương mại và đầu tư tới du lịch nhằm tránh sự trùng lặp và hướng tới sự bổ trợ, hiệu quả và sức mạnh tổng hợp cao hơn.
11. Chúng tôi đánh giá cao việc khởi động sáng kiến toàn diện, nhằm hỗ trợ tiến trình thuận lợi hóa thương mại và giao thông, nhằm gắn kết và tăng cường
Có thể bạn quan tâm!
- Tiến trình hợp tác kinh tế giữa các nước thuộc hành lang Đông Tây 1998 - 2010 - 21
- Tiến trình hợp tác kinh tế giữa các nước thuộc hành lang Đông Tây 1998 - 2010 - 22
- Tiến trình hợp tác kinh tế giữa các nước thuộc hành lang Đông Tây 1998 - 2010 - 23
- Tiến trình hợp tác kinh tế giữa các nước thuộc hành lang Đông Tây 1998 - 2010 - 25
Xem toàn bộ 206 trang tài liệu này.
những nỗ lực hợp tác trong khuôn khổ Hiệp định Vận tải qua biên giới (CBTA) và SFA-TFI. Chúng tôi yêu cầu các Bộ trưởng đẩy nhanh việc thực hiện CBTA và các kế hoạch hành động vùng và quốc gia trong khuôn khổ SFA-TFI.
12. Chúng tôi sẽ tăng cường những nỗ lực tạo lập môi trường mang tính cạnh tranh và thuận lợi cho thương mại, đầu tư và phát triển khu vực tư nhân, coi đây là yếu tố quyết định đối với việc phát triển những hành lang giao thông thành hành lang kinh tế. Chúng tôi sẽ ban hành các chính sách kinh tế hữu hiệu, triển khai các khuôn khổ pháp luật và thể chế và thúc đẩy quá trình tự do hóa, hài hòa và đồng bộ hóa các cơ chế thương mại và đầu tư. Chúng tôi sẽ thúc đẩy quan hệ đối tác giữa khu vực nhà nước và tư nhân nhằm tăng cường hoạt động kinh doanh và đầu tư trong tiểu vùng để trên cơ sở đó tạo ra cơ hội thu nhập và việc làm lớn hơn cho người dân. Trong bối cảnh đó, chúng tôi hoan nghênh đề xuất thiết lập Diễn đàn Hành lang kinh tế để điều phối sự phát triển của các hành lang kinh tế.
13. Các biện pháp được áp dụng đã góp phần củng cố Diễn đàn doanh nghiệp GMS và chúng tôi sẽ nỗ lực hơn nữa để thúc đẩy sự tham gia của khu vực tư nhân trong quá trình lập kế hoạch và phát triển tiểu vùng. Chúng tôi đánh giá cao hoạt động đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp vào ngày 30-3-2008 và yêu cầu các Bộ trưởng tiếp tục theo dõi và triển khai những khuyến nghị đưa ra trong buổi đối thoại, bao gồm sáng kiến thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào hoạt động xuất khẩu.
14. Chúng tôi đánh giá cao việc đưa Diễn đàn Thanh niên tiểu vùng GMS vào chương trình Hội nghị Thượng đỉnh lần này. Thanh niên tiểu vùng là thế hệ lãnh đạo và hoạch định chính sách kế tiếp, là những người lao động và những bậc phụ huynh tương lai của Tiểu vùng, do đó cần được trao cơ hội để được bày tỏ, lắng nghe và gánh vác công việc chung. Chúng tôi cũng hoan nghênh việc tổ chức Chương trình hữu nghị thanh niên Mê Công và trông đợi thanh niên sẽ tham gia rộng rãi hơn vào chương trình GMS.
Kế hoạch hành động phát triển GMS 2008-2012
15. Chúng tôi thông qua Kế hoạch hành động Viêng Chăn về Phát triển Tiểu vùng GMS giai đoạn 2008-2012. Trong bối cảnh này, chúng tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc triển khai sớm và thực chất những biện pháp sau:
Giao thông: Ðẩy mạnh xây dựng và cải tạo các tuyến đường nằm trong các hành lang GMS và mở rộng mạng lưới các hành lang thông qua sự kết nối đa phương thức, bao gồm tuyến đường sắt Xin-ga-po - Côn Minh.
Năng lượng: Hỗ trợ thiết lập một thị trường cung cấp năng lượng bền vững và hiệu quả trong GMS;
Viễn thông: Thúc đẩy sự kết nối hạ tầng viễn thông; thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông thông qua Mạng lưới Siêu xa lộ thông tin GMS; tăng cường nguồn lực cho sự phát triển thông tin tại các vùng nông thôn trong tiểu vùng; triệu tập hội nghị Bộ trưởng phụ trách lĩnh vực viễn thông tiểu vùng lần thứ nhất;
Nông nghiệp: Thực hiện sáng kiến GMS về phát triển năng lượng sinh học và năng lượng tái tạo tại khu vực nông thôn; mở rộng quy mô các chương trình kiểm soát dịch bệnh ở gia súc xuyên biên giới và tăng khả năng tiếp cận về thông tin trong lĩnh vực nông nghiệp tại các vùng hẻo lánh;
Môi trường: Hỗ trợ giảm thiểu các rủi ro môi trường đối với sinh kế của người dân và các kế hoạch phát triển của tiểu vùng, bao gồm những rủi ro về thay đổi khí hậu; kêu gọi tăng cường sự hợp tác giữa các nước thành viên nhằm bảo vệ tài nguyên rừng trong GMS;
Du lịch: Tăng cường quản lý bền vững các điểm du lịch tự nhiên và du lịch văn hóa; thúc đẩy việc quảng bá chung du lịch của tiểu vùng; tăng cường hoạt động của Cơ quan điều phối du lịch Mê Công;
Phát triển nguồn nhân lực: Thực hiện các khung chiến lược và kế hoạch hành động mới về hợp tác giáo dục, y tế, lao động và các lĩnh vực xã hội khác; mở rộng và khai thác sâu những nội dung của Kế hoạch quản lý phát triển Phnôm Pênh; ủng hộ Viện Mê Công thực hiện những chức năng được giao phó; tăng cường phòng, chống dịch bệnh truyền nhiễm tại các khu vực biên giới; .
Thuận lợi hóa thương mại: Hài hòa và thống nhất các thủ tục và hệ thống quản lý nhằm tạo thuận lợi cho di chuyển qua biên giới, cụ thể trong các lĩnh vực hải quan, di cư, kiểm dịch và thúc đẩy các dịch vụ hỗ trợ thương mại;
Ðầu tư: Thúc đẩy sự hợp tác về đầu tư và tăng cường sự tham gia của Diễn
đàn Doanh nghiệp tiểu vùng trong tiến trình hợp tác GMS.
Chúng tôi yêu cầu các Bộ trưởng, quan chức cấp cao, và các cơ quan chính phủ phối hợp chặt chẽ nhằm bảo đảm Kế hoạch hành động này được thực hiện hiệu quả và đúng thời hạn.
16. Chúng tôi nhận thức sự cần thiết huy động sự hỗ trợ và nguồn tài chính lớn hơn nhằm triển khai Kế hoạch Hành động. Theo đó, chúng tôi sẽ: (i) Tăng cường tính tự chủ và sự tham gia nhiều bên vào chương trình GMS; (ii) Thúc đẩy sự hợp tác giữa các chính phủ và doanh nghiệp GMS nhằm khuyến khích thương mại, đầu tư, du lịch và các lĩnh vực kinh tế-xã hội khác; (iii) Tăng cường huy động các nguồn lực cho các dự án ưu tiên của tiểu vùng. Chúng tôi cũng sẽ củng cố các khung thể chế và cơ chế để thúc đẩy những tiến triển trong hợp tác GMS.
17. Chúng tôi nhận thức đầy đủ và đánh giá cao vai trò đặc biệt của ADB với tư cách là đối tác thúc đẩy, cố vấn và tài trợ. Sự tham gia của ADB đã giúp đưa đến những thành công của GMS ngày nay. Chúng tôi cũng cảm ơn các đối tác phát triển khác đã tin tưởng và đóng góp thiết thực cho các nỗ lực hợp tác tiểu vùng. Chúng tôi đề nghị ADB và các đối tác phát triển tiếp tục hỗ trợ chương trình GMS bằng những nguồn lực và sự chuyển giao tri thức nhằm đưa GMS trở thành trung tâm hội nhập kinh tế trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Kết luận
18. Mười lăm năm trước đây, thật khó để hình dung sự thay đổi của tiểu vùng GMS ngày nay hoặc để nhận thức đầy đủ những đóng góp của chương trình GMS vào sự thay đổi này. Sự thay đổi ngày nay đem lại lợi ích to lớn cho các nước và người dân trong tiểu vùng và gắn liền với chương trình GMS. Sự liên kết kinh tế- thương mại giữa các nước trong tiểu vùng đã làm gia tăng đáng kể sự đầu tư vào phát triển nguồn nhân lực và thể chế do được thúc đẩy bởi những tiến bộ về kết nối hạ tầng, cũng như sự tăng cường ý thức cộng đồng và nhận thức về những lợi ích chung của sự hợp tác.
19. Hướng tới tương lai, chúng tôi cam kết gìn giữ và phát huy những thành quả đạt được. Tương lai GMS là do chúng tôi quyết định. Chúng tôi sẽ tăng cường sự hợp tác, phối hợp và hành động thống nhất để hiện thực hóa tầm nhìn về một tiểu vùng hội nhập, hài hòa và thịnh vượng.
Nguồn: Bộ ngoại giao Việt Nam
PHỤ LỤC 4. MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ HÀNH LANG KINH TẾ ĐÔNG TÂY
Hành lang kinh tế Đông Tây
Cầu Hữu nghị 2 trên tuyến hành lang Đông – Tây nối Savanakhet (Lào) và Mukdahan (Thái Lan)
Khai mạc tuần lễ EWEC 2007
Tuần lễ hành lang kinh tế Đông Tây 2007
Diễn đàn hợp tác hành lang kinh tế Đông Tây 2010
Bộ trưởng ngoại giao Phạm Bình Minh phát biểu tại diễn đàn hợp tác hành lang kinh tế Đông Tây 2010