khu vực mà có sự liên thông giữa các điểm du lịch trong một khu vực, các vùng và giữa các quốc gia với nhau.
* Đặc trưng thứ sáu: Chi phí
Du khách tham gia DLST nhằm hưởng thụ các sản phẩm du lịch chứ không phải với mục đích kiếm tiền. Họ sẵn sàng bỏ ra những khoản chi phí cho chuyến du lịch, nhằm khám phá cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, môi trường hấp dẫn, bản sắc văn hóa bản địa độc đáo...
* Đặc trưng thứ bảy: Xã hội hóa các hoạt động DLST
DLST thu hút nhiều người, tổ chức kinh tế, xã hội; cộng đồng trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia hoạt động du lịch; lợi ích do DLST mang lại được xã hội hóa rất rộng rãi; nhiều người, tổ chức, cộng đồng được hưởng lợi từ DLST.
* Đặc trưng thứ tám: Giáo dục nhận thức về môi trường
DLST giúp con người tiếp cận gần hơn nữa với các vùng tự nhiên và khu bảo tồn, nơi có giá trị đa dạng sinh học và nhạy cảm về môi trường. Qua các hoạt động du lịch sinh thái, nhận thức các khách du lịch, của người dân, cộng đồng dân cư về đa dạng sinh học và môi trường được nâng cao.
* Đặc trưng thứ chín: Bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên và duy trì tính ĐDSH
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu đánh giá tiềm năng khai thác bền vững các sản phẩm du lịch từ rừng đặc dụng khu vực chùa Hương huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội - 1
- Nghiên cứu đánh giá tiềm năng khai thác bền vững các sản phẩm du lịch từ rừng đặc dụng khu vực chùa Hương huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội - 2
- Nghiêm Cứu Các Giải Pháp Giảm Thiểu Tác Động Của Du Lịch Đến Các Hệ Sinh Thái Rừng
- Mục Tiêu, Đối Tượng, Phạm Vi, Nội Dung Và Phương Pháp Nghiên Cứu
- Đề Xuất Giải Pháp Khai Thác Bền Vững Các Sản Phẩm Du Lịch Từ Rừng Đặc Dụng
Xem toàn bộ 108 trang tài liệu này.
DLST bao gồm cả hoạt động giáo dục, nâng cao nhận thức và hình thành ý thức bảo vệ môi trường sinh thái cho khách du lịch, những người tham gia hoạt động du lịch. Qua đó thúc đẩy các hoạt động bảo vệ môi trường, tăng cường nguồn lực duy trì và bảo tồn ĐDSH.
* Đặc trưng thứ mười: Sự tham gia của cộng đồng địa phương
Sự tham gia của cộng đồng địa phương là một đặc trưng cơ bản của DLST. Cộng đồng địa phương với tư cách là chủ sở hữu các nguồn tài nguyên thiên nhiên nên sự tham gia của cộng đồng vào DLST có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, sự tham gia của cộng đồng mang lại sự phong phú, đa dạng của DLST
trên cơ sở phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử của địa phương, mặt khác tăng thêm khả năng quản lý, bảo tồn nguồn tài nguyên.
1.2.3. Điều kiện cần thiết để phát triển du lịch sinh thái
Muốn phát triển DLST cần phải có những điều kiện sau đây:
* Tồn tại các hệ sinh thái có tính ĐDSH cao
Đây là một điều kiện quyết định để phát triển DLST, bởi vì DLST là một loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, chỉ có thể tồn tại và phát triển ở những nơi có hệ sinh thái điển hình với tính ĐDSH cao. ĐDSH là cơ sở tạo ra sự hấp dẫn đối với khách du lịch, nhờ đó DLST mới tồn tại và phát triển được. Có thể nói nếu không có ĐDSH thì không thể có DLST.
* Cán bộ quản lý, hướng dẫn viên DLST phải có trình độ chuyên môn và hiểu biết về ĐDSH
Muốn DLST phát triển, cần phải có đội ngũ hướng dẫn viên du lịch, không chỉ nắm bắt được các kiến thức về du lịch mà còn có trình độ hiểu biết nhất định về các đặc điểm sinh thái tự nhiên và văn hóa ở địa phương. Họ có khả năng tuyên truyền, giải thích cho khách du lịch về văn hóa, lịch sử và ĐDSH, góp phần nâng cao nhận thức cho du khách về môi trường và bảo tồn ĐDSH.
DLST đòi hỏi những người quản lý, điều hành du lịch phải nắm vững và tôn trọng các nguyên tắc của DLST. Một mặt, các nhà quản lý điều hành DLST quan tâm đến lợi nhuận do du lịch mang lại nhưng mặt khác họ phải quan tâm đến việc bảo tồn ĐDSH thông qua các hoạt động thiết lập quan hệ hợp tác với nhà quản lý các khu bảo tồn thiên nhiên và cộng đồng địa phương nhằm mục đích góp phần vào việc bảo vệ một cách lâu dài các giá trị thiên nhiên và văn hóa, cải thiện cuộc sống nâng cao sự hiểu biết chung giữa người dân địa phương với khách du lịch (Nguyễn Đức Hậu, 2007). Đây là đặc điểm khác nhau cơ bản giữa DLST với các loại hình du lịch khác.
* Giảm thiểu tối đa các hoạt động tiêu cực của DLST đến môi trường
Hoạt động DLST thường có những tác động tiêu cực đến tự nhiên và môi trường. Nếu không có các biện pháp hạn chế những tác động tiêu cực sẽ làm mất đi cơ sở phát triển bền vững của DLST. Du khách sẽ không đến những nơi mà họ không có cơ hội thỏa mãn về sự khám phá ĐDSH cũng như các giá trị tự nhiên, lịch sử, văn hóa khác.
Để hạn chế những tác động tiêu cực đến môi trường, DLST cần tính toán đến lượng khách tham quan một cách hợp lý, đảm bảo sự hài hòa giữa lượng khách tham quan và môi trường. DLST cần phải tuân thủ các quy định của sức chứa, tính toán số lượng khác đến một địa điểm trong cùng một thời điểm sao cho phù hợp về mặt vật lý, sinh học, tâm lý, xã hội và trình độ quản lý của những người làm du lịch.
* Thỏa mãn nhu cầu nâng cao sự hiểu biết của khách du lịch
Việc thỏa mãn những mong muốn được khám phá, hiểu biết của khách du lịch về kinh nghiệm, hiểu biết đối với tự nhiên của văn hóa bản địa thường là rất khó khăn, song lại là yêu cầu cần thiết đối với sự tồn tại lâu dài của ngành DLST. Vì vậy, những dịch vụ để làm hài lòng sự hiểu biết của du khách có vị trí quan trọng chỉ đứng sau công tác bảo tồn. Những gì họ đã nhìn thấy và khám phá được có ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức, quan niệm, tâm tư, tình cảm của họ về môi trường, xã hội và cộng đồng (Công ty Du lịch Khoang Xanh - Suối Tiên, 2015).
1.2.4. Phát triển du lịch sinh thái bền vững
Phát triển du lịch bền vững thể hiện ở chỗ: Có sự tham gia của cộng đồng, xây dựng đánh giá tác động môi trường, tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sự phát triển của du lịch và ổn định, an toàn.
Phát triển DLST bền vững cần đảm bảo những nguyên tắc sau đây:
Khai thác, sử dụng tài nguyên hợp lý: Các hoạt động du lịch luôn luôn
gắn với việc khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các hệ sinh thái. Vì vậy, phải chú ý sử dụng hợp lý tài nguyên vào mục đích du lịch, không sử dụng tài nguyên một cách quá giới hạn cho phép.
Phát triển du lịch gắn với bảo tồn ĐDSH: Du lịch bền vững phát triển dựa vào tính ĐDSH. Vì vậy, các hoạt động du lịch luôn luôn gắn liền với viện bảo tồn ĐDSH.
Đảm bảo hài hòa các lợi ích: Du lịch mang lại lợi ích to lớn nhưng phát triển du lịch bền vững phải đảm bảo hài hòa giữa các bên liên quan như lợi ích của doanh nghiệp hoạt động du lịch, lợi ích của các cộng đồng, lợi ích của Nhà nước.
Tăng cường sự tham gia của cộng đồng: Phát triển du lịch sinh thái bền vững đòi hỏi cần có sự tham gia của cộng đồng nhằm tạo nên sự đồng thuận xã hội, cộng đồng cần được tham gia các quyết định có liên quan đến phát triển du lịch như quy hoạch du lịch, quá trình triển khai các dự án du lịch, giám sát các hoạt động du lịch, duy tu bảo dưỡng các công trình hạ tầng phục vụ du lịch.
Nâng cao tính trách nhiệm của các bên liên quan: Hoạt động du lịch bền vững dựa trên cơ sở đề cao tính trách nhiệm của các bên liên quan, các chủ thể tham gia các hoạt động du lịch.
1.3. Nghiên cứu trên Thế giới
1.3.1. Nghiên cứu về du lịch sinh thái
Yi-fong, Cheng (2012) trong "DLST bản địa và phát triển xã hội ở Vườn Quốc gia (VQG) Taroka và cộng đồng người San-Chan, Đài Loan" đã tìm hiểu tác động về mặt văn hóa xã hội của hoạt động du lịch mới được xây dựng tới bảo tồn văn hóa, xã hội và sinh thái. Tác giả đã kết luận rằng các nhóm khác nhau sẽ hưởng lợi hoặc chịu tác động khác nhau từ việc phát triển DLST. Phát triển du lịch ở VQG có thể sẽ làm trầm trọng hóa tính bất bình đẳng và khác biệt giữa các nhóm trong cộng đồng. Do vậy, để xây dựng một dự án DLST dựa vào cộng đồng cần thiết phải có hiểu biết sâu sắc về không chỉ mối quan hệ giữa
cộng đồng địa phương và môi trường mà cả những vấn đề chính trị, kinh tế và văn hóa tồn tại giữa các cộng đồng, cũng như giữa các cộng đồng và Ban quản lý VQG.
Yacob và cộng sự (2011) khi tìm hiểu về "Nhận thức và quan niệm của
khách du lịch về phát triển DLST ở VQG Redang Island Marine, Malaysia″ đã phỏng vấn 29 đối tượng, phân tích thông tin cơ bản của khách du lịch tới VQG, nhận thức và quan niệm của khách du lịch về quản lý tài nguyên du lịch, bảo tồn tài nguyên du lịch sinh thái và quan niệm của khách du lịch về tăng doanh thu cho VQG từ hoạt động du lịch. Nghiên cứu kết luận rằng quan điểm và nhận thức của khách du lịch về các vấn đề môi trường có thể được giải quyết trên cơ sở công tác lập kế hoạch và quản lý, do đó cách tiếp cận quản lý có thể sẽ thành công nếu như có cơ hội đối thoại và trao đổi giữa nhà quản lý và các bên liên quan. Tuy nhiên, quá trình quản lý, phát triển và lập kế hoạch DLST hiệu quả phải là một quá trình có đề cập đến hoạt động dựa vào thiên nhiên, kết hợp với giáo dục môi trường và duy trì sự bền vững sinh thái, những lợi ích đối với cộng đồng địa phương và tạo ra sự hài lòng của du khách. Nghiên cứu cung cấp những đề xuất có giá trị cho quản lý tài nguyên DLST ở VQG. Do vậy, nghiên cứu có khả năng hỗ trợ việc quản lý VQG nhằm cải thiện công tác quản lý tài nguyên DLST và phát triển kế hoạch phát triển DLST.
Bhuiyan và cộng sự (2011) trong nghiên cứu ‶Vai trò của Chính phủ trong
phát triển DLST: Nghiên cứu điểm ở khu vực kinh tế duyên hải″ đã khẳng định sự can thiệp của Chính phủ là rất cần thiết đối với các Quốc gia đang phát triển trong việc lập kế hoạch và xúc tiến hoạt động DLST. Cụ thể, ở Malaysia sự can thiệp chủ yếu của Chính phủ trong lĩnh vực phát triển DLST là phát triển các sản phẩm DLST, thúc đẩy khả năng tiếp cận du lịch, đào tạo, xúc tiến du lịch, phát triển du lịch bền vững... Nghiên cứu cũng đề xuất Chính phủ nên xây dựng
một kế hoạch hành động DLST, xây dựng năng lực thể chế, đầu tư cho các dự án DLST ở các khu rừng đặc dụng, phát triển nguồn nhân lực... Đặc biệt, Chính phủ nên đảm bảo lợi ích kinh tế, xã hội, văn hóa và sinh thái của cộng đồng địa phương thông qua việc tham gia phát triển DLST.
Hill (2011) trong nghiên cứu DLST ở khu vực Amazon Peru: Sự kết hợp giữa du lịch, bảo tồn và phát triển cộng đồng ″đã đề xuất một số nguyên tắc chủ yếu nhằm đạt được thành công trong quá trình phát triển DLST ở khu vực rừng nhiệt đới. Cụ thể, những nguyên tắc đó là nâng cao năng lực cộng đồng thông qua việc tạo điều kiện cho họ tham gia vào hoạt động DLST, trao đổi nhận thức giữa cộng đồng và người điều hành tour du lịch, đồng quản lý tài nguyên rừng, kết hợp đào tạo và du lịch, giảm thiểu ảnh hưởng của hoạt động du lịch tới môi trường và hệ sinh thái. Nghiên cứu này nhấn mạnh mối quan hệ giữa hưởng lợi hoặc chịu tác động khác nhau từ việc phát triển DLST. Phát triển DLST ở VQG có thể sẽ làm trầm trọng hóa tính bất bình đẳng và khác biệt giữa các nhóm trong cộng đồng. Do vậy, để xây dựng một dự án DLST dựa vào cộng đồng cần thiết phải có hiểu biết sâu sắc về không chỉ mối quan hệ giữa cộng đồng địa phương với môi trường mà cả những vấn đề chính trị, kinh tế và văn hóa tồn tại giữa các cộng đồng, cũng như giữa cộng đồng và Ban quản lý VQG.
Apostu và Gheres (2009) khi nghiên cứu về ‶Một số đề xuất về tổ chức và
phát triển DLST đối với rừng đặc dụng ở Romania″ đã phân tích thực trạng hoạt động DLST ở Romania và cho thấy những thiếu sót có thể chia thành 2 nhóm là: thiếu sót trong nội bộ ngành du lịch và thiếu sót trong việc quản lý các khu rừng đặc dụng. Đối với nội bộ ngành, vấn đề nảy sinh từ sự thất bại trong chương trình quảng bá cho môi trường sinh thái ở tất cả các cấp quản lý, đặc biệt là không có chương trình phổ biến thông tin cho cộng đồng ở những khu
vực có tiềm năng lớp về DLST.
Ở các khu rừng đặc dụng, một loạt vấn đề nảy sinh nhưng không bắt nguồn từ việc không thể thực hiện được hình thức du lịch này mà nảy sinh từ thực tế thiếu một cơ chế quản lý hợp lý môi trường tự nhiên có giá trị độc đáo và quan trọng đối với việc duy trì cân bằng sinh thái và bảo vệ ĐDSH. Trong nghiên cứu Tiềm năng DLST và quản lý DLST ở hạ lưu sông Kavak (Tây Đông Thổ Nhĩ Kỳ″, Ozcan và cộng sự (2009) nhận thấy rằng cần phải thực hiện một hệ thống các giải pháp để có thể phát huy tối đa tiềm năng DLST. Các giải pháp đó bao gồm xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ DLST đáp ứng nhu cầu của du khách, thực hiện các biện pháp ngăn ngừa tác động tiêu cực của hoạt động DLST tới bảo tồn chim hoang dã, đồng thời đặt những biển quảng bá thông tin về tính đặc hữu của loài chim trong bảo tồn. Bên cạnh đó dù có tiềm năng DLST rất lớn nhưng khu vực nghiên cứu cũng chịu sự ảnh hưởng của các hoạt động của người dân sống lân cận như canh tác nông nghiệp, chăn nuôi gia súc, săn bắn. Chính vì vậy, những hoạt động nông nghiệp có thể gây ảnh hưởng tiêu cực tới việc phát triển DLST cần phải được loại bỏ.
Sambin và cộng sự (2013) trong nghiên cứu ‶Sự bền vững của tài nguyên
DLST ở VQG Taman Negara: Phương pháp định giá ngẫu nhiên (Contingent Valuation″ đã đánh giá được giá trị kinh tế của tài nguyên DLST ở VQG Taman Negara. Nghiên cứu cũng đã đưa ra được khung mức bằng lòng chi trả cho dịch vụ DLST ở VQG và kết luận rằng du khách bằng lòng chi trả mức phí vào cửa cao hơn so với mức phí hiện hành.
Chase và cộng sự (1998) cũng áp dụng phương pháp tương tự trong nghiên cứu Cầu về DLST và nguyên tắc phân biệt giá trong thu phí vào cổng VQG ở Costa Rica″. Tuy nhiên, Costa Rica và cộng sự không chỉ đề xuất khung mức
bằng lòng chi trả mà còn xây dựng được hàm cầu về DLST đối với VQG và đánh giá được độ co giãn của cầu theo thu nhập. Trên cơ sở đó, nghiên cứu tính toán được mức phí nhằm tối đa hóa doanh thu và phân tích ứng dụng của nguyên tắc phân biệt đối với quản lý DLST trong VQG. Tác giả cũng kết luận mức phí vào cổng hiện hành không phản ánh chính xác mức bằng lòng chi trả của du khách.
Như vậy, việc nghiên cứu về DLST và DLST ở các VQG, ở các khu bảo tồn tài nguyên thiên nhiên của các tác giả ở nước ngoài cho thấy việc quản lý và khai thác DLST cần phải tổ chức quản lý thống nhất và tài nguyên DLST tại các VQG là một tài nguyên rất có giá trị và cần được khai thác hiệu quả DLST, bảo tồn hệ sinh thái và phát triển cộng đồng địa phương.
1.3.2. Nghiên cứu tác động của du lịch đến tài nguyên thiên nhiên
Những nghiên cứu cũng khẳng định du lịch sinh thái là một mắt xích của phát triển bền vững, là một nguồn lực cho phát triển bền vững, song nó yêu cầu một cách tiếp cận tổng hợp đa lĩnh vực, một quy hoạch tốt và hướng dẫn chỉ đạo thực hiện nghiêm túc để có thể đảm bảo cho sự vận hành bền vững. Việc phát triển du lịch sinh thái nhưng thiếu kinh phí và nhân lực đã làm tài nguyên không được bảo vệ tại nhiều KBTTN, đặc biệt ở các nước đang phát triển (David Western, 1999). Họ cũng cho rằng những tồn tại trên có thể bắt đầu được tháo gỡ nếu có các cơ cấu thích hợp để phân bổ đồng tiền thu được từ du lịch vào hệ thống các KBTTN (Héctor Caballos - Lascurain, 1999).
Kết quả nghiên cứu cho thấy hiện tại các khu bảo tồn hợp pháp đang chịu một áp lực từ du lịch sinh thái.