Các Di Tích Lịch Sử - Văn Hóa‌


tỉnh Tiền Giang thuộc lưu vực Sông Tiền và sông nầy là nguồn cung cấp nước tưới, nước sinh hoạt chủ yếu cho cả tỉnh. Sông Tiền cùng với các nhánh của nó cũng là môi trường rất thuận lợi cho nuôi trồng và phát triển thủy sản, đặc biệt là phát triển du lịch sông nước kết hợp với các vườn cây ăn trái ven sông.

Chiều dài sông Tiền tính từ chỗ giáp ranh với tỉnh Đồng Tháp đến đầu cù lao Tàu, nơi phân lưu thành 2 sông Cửa Tiểu, Cửa Đại là 77.400 m, đây cũng là ranh giới tự nhiên của Tiền Giang với 2 tỉnh Bến Tre và Vĩnh Long ở phía Nam. Trên 120km, sông Tiền chảy trên đất Tiền Giang, ngoài dòng chính ra còn có một hệ thống phụ lưu phong phú như: Rạch Cái Thia và phụ lưu của nó; rạch Trà Lọt; rạch Cái Bè và phụ lưu của nó; rạch Ba Rài; rạch Trà Tân; rạch Gầm; rạch Bảo Định; rạch Cả Hôn – Cầu Ngang; rạch Vàm Giồng; Sáu Thoàn; rạch Giá, rạch Long Nông; rạch Gốc. Phần lớn các phụ lưu này đều ngắn nhưng khá sâu và rộng. Nó có nhiệm vụ dẫn nước tưới và tiêu cho nhiều vùng đất cổ bọc phía Bắc sông Mỹ Tho.

Một con sông chính nữa chảy qua Tiền Giang là sông Vàm Cỏ, chỉ là sông nhỏ và có rất nhiều đoạn uốn khúc. Nước từ thượng nguồn đổ về theo 2 nhánh Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, đến gần Cần Đước 2 nhánh nhập một rồi đổ ra Biển Đông qua cửa Soài Rạp.

Vàm Cỏ là con sông lớn thứ hai chảy qua địa phận Tiền Giang ở phía Bắc, chỉ chỉ có 39 km chiều dài chảy trên đất Tiền Giang trước khi đổ vào cửa Soài Rạp để ra biển. Tuy vậy, nó cùng với nhánh Vàm Cỏ Tây ảnh hưởng khá lớn đến các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh nhà.

Phần lớn chiều dài sông Vàm Cỏ thuộc tỉnh Long An, riêng đoạn dài 39 km từ vàm sông Tra (một nhánh của sông Vàm Cỏ, vàm nầy tại xã Bình Xuân, Huyện Gò Công Đông, Tỉnh Tiền Giang) đến cửa Soài Rạp là một phần ranh giới tự nhiên giáp biển giữa 2 tỉnh Tiền Giang và Long An.

Cũng như sông Tiền ở hai phía (tả, hữu) của sông Vàm Cỏ có rất nhiều chi lưu. Riêng địa phận Tiền Giang có: rạch Cái Tôm, rạch Láng Cò, rạch Chanh, rạch Cần Đối, rạch Bảo Định, rạch Gò Công, rạch Vàm Tháp.


Ngoài hai sông chính đó ra Tiền Giang còn có các kênh, rạch rất nhiều chảy đan xen các vườn cây ăn trái, khắp các địa phương hầu hết huyện nào trong tỉnh cũng có các hệ thống sông, rạch chảy qua. Các rạch: Ba Rài, Cái Cối, rạch Cầu Ngang, Gò Cát, Hóc Lựu, Rạch Tràm, Gò Công, Trà Tân, Bang Lợi, Rạch Gầm, Vàm Giồng, Rạch Lớn; Kênh: Bảo Định, 14, 28, Bắc Đông, Chợ Gạo, N8, Nguyễn Văn Tiếp, Nguyễn Tất Thành (kênh Xáng), Tham Thu, Salisetti, Champeaux, Trần Văn Dõng, Xóm Gồng, Xuân Hòa; Ao: Trường Đua, Sinh Thái, Vàm Láng, Giếng nước Mỹ Tho,

Ta thấy, qua hệ thống sông, kênh, ao khá nhiều ở Tiền Giang thì khả năng phát triển du lịch sông nước là ưu thế nhất của tỉnh. Đối với hai con sông lớn là sông Tiền và sông Vàm Cỏ, ngoài việc phát triển các vườn trái cây đặc sản cho du khách thưởng thức, còn phát triển loại hình du thuyên trên sông ngắm cảnh trời thiên nhiên hai bên bờ sông. Hai con sông trên đã làm cho sắc thái về tự nhiên của Tiền Giang một phần khác so với các tỉnh lân cận. Chính các con sông cho đất phù sa ngọt để phát triển các loại cây trồng nói chung và cây ăn trái nói riêng. Khả năng nuôi các loại cá nước ngọt tạo ra những món ăn đặc thù cho khách du lịch và góp phần làm phong phú thêm các sản phẩm du lịch của tỉnh.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 138 trang tài liệu này.

Đối với các hệ thống kênh, cũng đóng góp rất lớn về lượng nước cũng như điều hòa các chế độ dòng chảy cho sông. Phần nào đã tạo nên một chế độ dòng chảy ổn định, tạo điều kiện cho kinh doanh du lịch thuận lợi nhất là du lịch sông nước. Du khách có thể đi vào các kênh này để khám phá những gì mình chưa biết, ngoài ngắm cảnh có thể nghiên cứu, học tập,...

Các ao chứa nước, nhất là Giếng nước Mỹ Tho nằm ngay trung tâm thành phố vừa đêm lại vẽ mỹ quan đô thị, vừa tạo nên một không khí mát mẽ nằm giảm nhiệt độ đô thị lúc nào cũng cao hơn nông thôn. Về đêm Giếng nước có một nét đẹp rất dễ thu hút khách khi có đèn đủ sắc màu thấp lên. Tạo nên một phong cảnh về đêm thật tuyệt góp phần làm cho đô thị Mỹ Tho đẹp, văn minh, môi trường sinh thái dễ chịu.

Tiềm năng, thực trạng và định hướng phát triển du lịch tỉnh Tiền Giang - 8


2.2.1.5. Sinh vật

Khí hậu vùng Tiền Giang mang tính chất gió mùa cận xích đạo. Các yếu tố khi hậu gồm: độ ẩm không khí, nắng, bức xạ, nhiệt độ, mưa...được phân bố theo mùa trong năm khá rõ nét. Qui luật phân bố này khá ổn định qua nhiều năm và ít thay đổi trong không gian. Cùng với đặc điểm địa chất, địa hình, đây là một trong những điều kiện để thảm thực vật phát triển phong phú, đan xen, cho nên sự phân bố thảm, vùng không có tính khu biệt.

Thực vật rừng: Diện tích chiếm 13.120,41 héc ta. Trong đó: rừng tự nhiên 305,86 héc ta (rừng phòng hộ), rừng trồng12.814,55 héc ta. Ngoài ra Tiền Giang còn có vườn cây ăn trái chiếm diện tích 170.377,44 héc ta. Trong đó cây lâu năm là 75.166,87 héc ta; vườn tạp là 2.520,90 héc ta, cây hàng năm 92.689,67 héc ta.

Thực vật trồng trọt: Chủ yếu là cây lúa, rau, màu chiếm tổng diện tích 85.568,98 héc ta. Ngoài ra có các loại cây trái rất đa dạng được trồng trến các lếp, vườn của các hộ nông dân, đặc biệt là các hộ ven các sông, rạch, kênh.

Quần thể thực vật ven biển, ven sông rạch: Trước hết là quần thể thực vật phía đông của tỉnh, ven biển vùng Gò Công. Chủng loài thực vật ở đây tương đối đơn điệu, nếu càng đi về phía biển, và phong phú hơn khi đi sâu vào đất liền. Đáng kể nhất là các cây dừa nước (Nipa fructicans), Cây lức (Pluchea indica) thuộc họ cúc (Asteraceae), họ bìm bìm (Convolvulaceae) có cây muống biển (Impomaea pes- caprae).

Ven biển Gò Công còn có các loại cây họ đước vẹt (Rhizophorzceae), họ cỏ roi ngựa (Verbenaceae) có cây mắm, cây chà là (Phoenix paludosa), bần ổi (Sonneratia alba), bần đắng (Sonneratia griffithii).

Ở ven sông rạch vùng nước ngọt sông Tiền, các nhóm thảo mộc thường thấy thuộc họ ráy (Araceae) ,cây nghể (Polygonum hydropiper - còn gọi thủy liễu) thuộc họ rau răm (Polygonaceae), cây dứa gai (Pandanus tectorius), họ rau dừa nước (Oenotheraceae), bèo cái (Pistia stratoites), cây rau chóc (Laisia spinosa ), họ ô rô (Acanthaceae) mọc hoang nơi bãi lầy cũng được khai thác làm thuốc. Cây ngãi (huệ nước), họ layơn (Iridaceae), họ nê thảo (Butomaceae), cây kèo nèo (Limmocharis


flava), mọc ven bờ nước, làm rau ăn...Cùng chủng loại có cây rau tai tượng được trồng quanh bờ ao làm rau ăn. Họ Cói (Cyperraceae) có cây Thủy trúc hay gọi là lác dù, ô du. Họ Lục bình (Pontederriaceae), Rau nhút, họ trinh nữ (Mimosaceae) (hay còn gọi rau thuần) được trồng nhiều ở ao đìa vùng đất ven sông rạch, nhiều phù sa.

Quần thể thực vật vùng phù sa cổ, đất giồng: Đặc điểm địa chất của vùng đất này là đất cát và đất pha cát, độ màu mỡ ít, ở cao và thường khô hanh vào mùa nắng, thích hợp các loại cây: Họ sao, dầu (Dipterocarpaceae), họ bàng (Combretaceae) có cây trâm bầu (Commbretum quadrangulare Kurz), mọc ở dãy đất cao, hiện ở Gò Công còn địa danh Gò Bầu. Cây bàng (Terminalia catappa), họ hàng nhà tre có nhiều chủng loại gồm tre đắng, tre hóp (Bambusa muiplex) , tre gai và các loại trúc. Họ trinh nữ (Mimosaceae) có cây me keo (Pithecolobium dulce), keo bông vàng (Acacia aneuramuell), họ đậu (Fabaceae) có các loại thân gỗ như cây me (Tamarindus indicus), cây so đũa (Sesbaria grandiflora), cây vông nem (Erythrina variegata), được trồng để lấy lá gói nem, hoặc dùng làm trụ (nọc) để trồng trầu, hồ tiêu. Họ thầu dầu (Eupborbiaceae) đại diện là cây bả đậu (Huara crepitans), họ trúc đào (Apocyraceae)

Ngoài ra còn rất là nhiều họ thảm thực vật, đã tạo cho Tiền Giang có một phong cảnh thực vật rất xanh. Đặc biệt là các loại thân thấp, các loại cỏ, các loại cây có giá trị kinh tế. Trong các loài họ trên có rất nhiều loài làm thuốc chữa bệnh rất tốt, nên đây được coi là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá để xây dựng các sản phẩm du lịch.

Chim rừng có nhiều loại, một số có tập quán di trú, chỉ xuất hiện theo mùa, một số làm tổ định cư thành những vườn cò, vườn chim, gồm có: cu đất, cu cườm, cu xanh, cưỡng, sáo, sáo nghệ, sáo sậu, sáo trâu, nhồng, chìa vôi, se sẻ, chim khách, bìm bịp, ó diều, chim ụt, lắc nước, le le, gà đãy, bồng bồng, giỏ giẻ, óc cau, cò ma, cò trâu, cò quắm, cò trắng, cúm núm, chàng bè, diệc lửa, diệc mốc, dồng dộc, chim sắc, trao trảo, sa sả, chài chài, điên điển, cồng cộc, chim sâu, chim vịt...


Chuột và dơi cũng rất đông đúc. Họ hàng nhà chuột, gồm các loại chuột lắc, chuột cơm, chuột cống, chuột cống nhum...là tai họa của nhà nông. Dơi thường thấy có dơi quạ, dơi sen, dơi hương, dơi muỗi... cư trú ở vùng cây ăn trái.

Cá là thực phẩm chính của cư dân địa phương từ bao đời nay, mặc dù môi trường ô nhiễm và nạn đánh bắt bừa bãi, nhiều loài cũng đã tuyệt chủng, nhưng nguồn cá vẫn còn khá phong phú, bao gồm: các loại cá nước ngọt: Cá bống tượng, bống mú, bống các, bống xệ, bống trứng (chỉ xuất hiện vào mùa nước son từ thượng nguồn đồ về), bống dừa, cá trèn, cá chốt. Cá lòng tong có hai loại: đá và bay. Cá mè vinh, cá mè rổ, mè hôi, cá bãi trầu, cá lành canh. Cá linh trong mùa nước nổi rất nhiều, ngày xưa người ta chỉ nấu lấy dầu, làm mắm hoặc làm nước mắm. Nhiều loài sống ở sông, kinh rạch như: cá lăng, cá úc, cá dồ. Cá bông lau sống ở vùng nước lợ, cá hú, cá ba sa. Cá chạch và cá chạch lấu có hoa ở thân. Cá ở đồng ruộng ao, đìa gồm có: cá rô, cá dầy tho, các sặt bướm, cá sặt rằn (vảy nhỏ, dẹp, nhỏ con hơn dày tho), cá lóc cùng loại có cá tràu nhỏ con hơn. Cá bông to con, sống ở sông lớn, ít vô ao đìa. Loài giác ngư (có hai ngạnh) còn có cá trê trắng, cá trê vàng, cá trê dừa, sau có cá trê phi nhập. Cá bẹ dẹp, cá vược, cá chẻm, cá vược. Ngoài các loại cá chưa thống kê hết được, ở vùng nước ngọt, còn có các loài lươn, chình... cũng là nguồn thực phẩm giàu dinh dưỡng.

Các loại cá biển rất nhiều, những loài phổ biến gồm: cá chim, cá sơn, cá rựa giống như lưỡi rựa, cá thu, cá biển, cá thu ầu, cá thu lá, cá gún, cùng loại. Cá mập, cá dứa, cá mòi, cá ngừ, cá chét, cá mực, cá cúi (heo biển), cá bẹ. Cá búa, cá giủa, cá nhám – cùng loại cá mập nhưng nhỏ con, màu xám. Cá đường, cá kìm, cá lạc, cá bạc má, cá lù đù, cá chỉ vàng, cá thòi lòi biển, cá bống kèo sống ở cửa sông nước lợ hiện nay giá rất đắt do thị trường ưa chuộng; cá lưỡi trâu, cá đối thường dùng để làm khô.

Ở sâu trong Đồng Tháp Mười có nhiều cá thia thia, cá bãi trầu; cá rô năn, cá trê năn cũng là loại cá rô, cá trê nhưng sống vùng nước phèn không lớn được. Khu Bảo tồn sinh thái Đồng Tháp Mười là nơi lưu giữ những sinh cảnh tự nhiên còn lại của hệ sinh thái độc đáo vùng Đồng Tháp Mười. Khu bảo tồn có diện tích 106,8


ha, trong đó có 36 ha tràm là khu trung tâm, nơi dẫn dụ chim mồi. Vùng đệm xung quanh khu bảo tồn được xác định có diện tích 1.800 ha. Đây được coi là nơi tham quan nghiên cứu đặc trưng của vùng ngập nước.

Các loại nhuyễn thể và giáp xác ở vùng nước mặn gồm: đồm độp hay còn gọi là hải sâm, nghêu, sò huyết, ốc len, cua biển, sam ghẹ, ba khía, họ hàng nhà tôm, còng biển... Ở vùng nước ngọt, trong đất liền có các loại ốc: ốc ma loại ốc rừng, ốc hương, ốc gạo, ốc bưu, ốc lác, ốc đắng, ốc đá và hến, vẹm, móng tay... Con lưỡi búa cùng loại có nhiều ở cồn Tân Phong, có thịt dai, ít người ăn. Con còng gió, cua đồng và tôm càng xanh, tép đồng, tép lóng, tép đất... Loài đỉa hầu như đã tuyệt chủng.

Loài lưỡng cư có các loại cóc, nhái, nhái bầu, ếch, ễnh ương, bù tọt, hót cổ.

Ếch bầu cũng có nhiều ở các giồng cát, dân địa phương gọi là con uềnh oang.

Loài bò sát, còn tồn tại các loại rắn nước, rắn hổ mang, rắn hổ ngựa, rắn lục, rắn ri cá, rắn ri voi, rắn ri dông, rắn ri cóc, rắn bông súng, rắn hổ hành, rắn trung, rắn chàm quạp...và một số loài rắn biển khác. Rùa có nhiều nhưng hiện nay còn sót lại rất ít, gồm các loại rùa vàng, rùa nắp, con cua đinh... Loài bò sát khác còn có kỳ nhông, tắc kè, rắn mối, thằn lằn...Các loài rắn này được trại rắn Đồng Tâm bảo tồn rất nhiều.

Ngoài ra còn có các loại gia súc, gia cầm được nhiều hộ gia đình chăn nuôi ở tất cả các địa phương trong các huyện.

Qua các hệ động vật rất là phong phú về loài đa dạng về chủng loại, ngành du lịch tận dụng các loài này để làm các món ăn do chính dân địa phương chế biến để quảng bá về ẩm thực của vùng mình. Tạo ra nhiều món ăn lạ, ngon để thu hút khách du lịch từ mọi miền đất nước, kể cả khách quốc tế. Chính đặc điểm về hệ thực vật và động vật phong phú trên, mà tỉnh Tiền Giang chưa khai thác hết phục vụ các món ăn mới lạ cho du khách. Trong tương lai ngành du lịch sẽ khai thác các đặc điểm này để phát huy thế mạnh tiềm năng, cụ thể là các vùng sinh thái của tỉnh hầu hết đã quy hoạch chi tiết để từng bước khai thác tốt các loại tài nguyên này.


2.2.2. Tài nguyên du lịch nhân văn‌

2.2.2.1. Các di tích lịch sử - văn hóa‌

Tiền Giang là tỉnh có nhiều di tích lịch sử - văn hóa, có nhiều kiến trúc tồn tại hàng trăm năm, gắn liền với các chiến công chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Nhiều khu di tích được công nhận mang tầm cỡ quốc gia, điều đó cho thấy tài nguyên du lịch nhân văn của tỉnh khá lớn.

Chiến thắng Rạch Rầm – Xoài Mút: Rạch Gầm - Xoài Mút là nơi đầu tiên trên địa bàn phía Nam của Tổ quốc đã diễn ra một trận thủy chiến chiến lược đánh tan 300 chiến thuyền, 5 vạn quân Xiêm xâm lược và tập đoàn phong kiến bán nước Nguyễn Ánh vào đêm 19 rạng sáng 20 tháng 1 năm 1785. Có thể nói, chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút là một chiến công chống ngoại xâm lừng lẫy của nhân dân Đàng Trong, lớn nhất trong 5 thế kỷ kể từ chiến thắng Bạch Đằng ở thế kỷ thứ 13. Với chiến thắng này, nhân dân miền Nam đã nêu cao truyền thống anh hùng của dân tộc và xứng đáng là bức thành kiên cố phía Nam của Tổ quốc. Khu di tích Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút tọa lạc tại ấp Đông (Kim Sơn, Châu Thành, Tiền Giang), nằm cạnh bờ sông Tiền, ngay mặt tiền tỉnh lộ 864, cách Mỹ Tho khoảng 12 km về phía Tây. Di tích đã được đưa vào sử dụng vào ngày 20 tháng 1 năm 2005 nhân kỷ niệm 220 năm chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút, với diện tích 1,5 ha gồm 3 nhà trưng bày.

Di tích Lũy Pháo Đài: Bên Cửa Tiểu thuộc xã Phú Tân, huyện Tân Phú Đông, năm Minh Mạng thứ 15 (1834) vua cho xây dựng đồn Từ Linh nhằm bảo vệ cửa biển và thu thuế. năm 1861 Trương Định cho quân đóng tại đồn này để chặn đánh tàu Pháp, đồn được gọi là chiến lũy Pháo Đài. Đây là thành lũy có hình lục giác, thành bằng đất, mỗi cạnh dài 22m, cao 1,8m, có 2 cửa, giếng nước ngọt, trại lính, kho lương thực và kho đạn. Bên ngoài thành có hào lũy và một khẩu thần công loại lớn.

Mộ anh hùng dân tộc Trương Định: Là người con của đất Quảng Ngãi, Trương Định sinh năm 1820 là người đi đầu trong khai hoang lập ấp tại vùng Gò Công, được triều đình bổ nhiệm chức Quản Cơ. Trong những năm kháng chiến


chống Pháp, ông là người đầu tiên của Việt Nam dấy binh khởi nghĩa làm quân giặc bao phen khiếp sợ. Mộ ông được xây dựng tại Phường 1- Thị xã Gò Công, mộ được xây bằng đá xanh, diện tích khoảng 67m2. Mặt bia có khắc chữ "Đại Nam – Phấn Dũng Đại Tướng Quân, Truy tặng Ngũ Quân, Quận Công, Trương Công Định Chi mộ". Đến đây du khách còn có thể tìm hiểu kiến trúc mộ táng tiêu biểu vùng Nam Bộ.

Đền Thủ Khoa Huân: Nguyễn Hữu Huân (1830 – 1875) sinh tại thôn Tịnh Giang, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường (nay là xã Hòa Tịnh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang), đỗ thủ khoa kỳ thi Hương tại Gia Định nên được gọi là Thủ Khoa Huân, được triều đình bổ nhiệm làm chức Giáo phụ thủ kiến An. Thủ Khoa Huân ba lần lần đứng lên dấy binh khởi nghĩa chống thực dân Pháp xâm lược. cả ba lần đều bị địch bắt, một lần bị kết án khổ sai và đày đi vùng Trung Mỹ, cuối cùng chúng đưa ông về quê nhà xử trảm.

Chiến thắng Cổ Cò: Trận Cổ Cò diễn ra ngày 22 tháng 01 năm 1947 (nhằm ngày mùng 1 Tết Đinh Hợi) là trận phục kích của Chi đội 17 Quốc vệ đội Mỹ Tho và chi đội 18 đại đội trường quân chính khu 8, cùng du kích huyện Cái Bè đánh tiểu đoàn Leon co giới Pháp ở khu vực Cổ Cò, diệt và làm bị thương hơn 170 tên, là trận đánh lớn đầu tiên trên chiến trường khu 8, góp phần chặn đứng âm mưu bình định nông thôn Nam Bộ của địch. Di tích chiến thắng Cổ Cò thuộc xã An Thới Đông, huyện Cái Bè.

Chiến thắng Giồng Dứa: ngày 25 tháng 4 năm 1947, dưới sự chỉ huy của đồng chí Trần Văn Trà, Khu Bộ trưởng khu 8, Chi đội 17 bộ đội chủ lực của quân khu và Đại đội khóa sinh trường Quân chính khu 8, phối hợp cùng quân dân Mỹ Tho tiêu diệt đoàn xe Công voa và đoàn xe chính phủ bù nhìn Nam Kỳ tự trị. Ở trận này ta tiêu diệt 80 tên, có tên các tên chỉ huy tình báo Pháp, 1 tên đốc phủ và 1 tên bộ trưởng ngụy quyền, làm chấn động nước Pháp thời bấy giờ. Di tích chiến thắng Giồng Dứa thuộc xã Long Định, huyện Châu Thành.

Bia căm thù bến đò Phú Mỹ: bia căm thù Bến đò Phú Mỹ thuộc ấp Phú Hữu, xã Phú Mỹ, huyện Tân Phước. Trong những năm 1947 – 1949, thực dân Pháp đã bắt

Xem tất cả 138 trang.

Ngày đăng: 20/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí