hoạt động quản trị cũng không khác biệt nhiều lắm và đều cần đến những công thức thành công chung. Ông Masao Nemoto, cựu giám đốc điều hành Tập đoàn Honda, đã khuyến cáo các nhà quản trị doanh nghiệp: ―Một trong những chức năng quan trọng của người quản trị là thực hiện tốt sự phối hợp giữa bộ phận của mình với những bộ phận khác‖. Và một kết luận rút ra là giới quản trị cấp cao không nên giao phó những công việc quan trọng chỉ cho một phòng ban duy nhất.
Các nhà quản trị cần chú ý đến các kỹ năng huấn luyện và thuyết trình. Các nhà quản trị tại Tập đoàn điện tử Sony, Nhật Bản, luôn chú trọng việc giúp các nhân viên phát triển kỹ năng diễn giải và trình bày về công việc của mình trước tập thể để họ có được những sự cộng tác đầy đủ và hữu hiệu hơn. Hãng Honda thì lại có chính sách luân phiên huấn luyện nhân viên. Thông thường, những nhà quản trị đều có xu hướng muốn giữ những nhân viên giỏi nhất của mình không cho luân chuyển sang bộ phận khác, nhưng về lâu dài, chính sách luân chuyển nhân viên giỏi sẽ rất có lợi cho toàn thể Công ty. Các nhà quản trị và người trưởng nhóm giám sát thường có rất nhiều buổi thuyết trình và báo cáo vì trong chương trình kiểm tra chất lượng thường phải có báo cáo về tiến độ thực hiện công việc. Đó là những dịp rèn luyện kỹ năng thuyết trình và khám phá những vấn đề mới hoặc những thiếu sót của vấn đề.
Ở Tập đoàn Toyota hay Mitsubishi, luôn có truyền thống ―tạo cơ hội để được lắng nghe cấp thấp nhất‖. Nếu thuộc cấp có yêu cầu giúp đỡ điều gì, nhà quản trị nên cố gắng thực hiện theo yêu cầu ấy ngay khi có thể. Nói một cách khác, nếu các nhân viên cảm nhận rằng nhà quản trị cấp cao quan tâm và sẵn sàng giải quyết vấn đề của họ, thì họ sẽ tích cực, lạc quan hơn việc thực thi nhiệm vụ được giao và sẽ có thái độ nghiêm túc hơn đối với những mục tiêu chung mà nhà quản trị đề ra.
Và cuối cùng ―Làn sóng văn minh thứ tư‖ đang hướng các Công ty, Tập đoàn kinh tế lớn của Nhật Bản đến việc phá vỡ những chương trình quản lý cũ thông qua việc mở ra những phương pháp mới nhằm tăng cường đầu tư vào sáng tạo, đổi mới các qui trình quản trị lãnh đạo theo yêu cầu của tình hình mới... Có thể nói, tính sáng tạo đang ngày càng có ảnh hưởng lớn và giữ vai trò tiên phong trong cuộc cách mạng quản trị diễn ra ở Nhật Bản kể từ những năm đầu của thiên niên kỷ mới.
4. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam
Thứ nhất: Bài học kinh nghiệm rút ra cho các doanh nghiệp Việt Nam khi muốn thành lập Tập đoàn kinh tế là nên xây dựng phương thức quản trị cho Tập đoàn mình. Phương pháp quản trị và xây dựng quản lý theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con phải phù hợp với môi trường hoàn cảnh của quốc gia và ngành nghề hoạt động kinh doanh của mình. Về nhân sự quản trị cho Công ty mẹ, Công ty con nên sử dụng thật phù hợp, tránh lãng phí và phân bổ không đúng người tại mỗi vị trí. Phối hợp thật tốt giữa bộ phận này và bộ phận khác hay Công ty này với Công ty khác của Tập đoàn kinh tế. Chú trọng đầu tư cho đổi mới công nghệ cho Tập đoàn, tạo ra phương pháp nghiên cứu mới cho hoạt động kinh doanh, sản phẩm mới…
Thứ hai: Đối với Việt Nam, khi những doanh nghiệp mang tính gia đình đã đủ lớn để bắt đầu chia sẻ quyền sở hữu của họ với các nhà đầu tư khác, và đã sở hữu nhiều Công ty con dưới hình thức một Tập đoàn kinh doanh, những doanh nghiệp này cần phải được quản lý chặt chẽ bằng các quy định và cơ chế quản trị doanh nghiệp lành mạnh. Tuy nhiên, ở Việt Nam có lẽ sẽ không xuất hiện các Công ty gia đình lành mạnh trong thời gian tới. Do vậy, nhiệm vụ trước mắt là phải đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là ở các Công ty mẹ của Tập đoàn. Làm thế nào để chọn ra được những nhà quản lý cấp cao có năng lực tốt nhất và làm thế nào để tạo động lực cho họ nỗ lực hết sức trong hoạt động quản lý điều hành Tập đoàn? Ai sẽ là người hoạch định chiến lược cho Tập đoàn, trong khi không can thiệp vào hoạt động quản lý điều hành của ban giám đốc này?
Thứ ba: Tại Việt Nam, cần phải có sự tách biệt rõ ràng giữa chức năng quản lý vốn sở hữu của nhà nước với cơ chế hoạt động của thị trường và các chức năng khác. Hơn thế, sự đại diện với tư cách chủ sở hữu phần vốn nhà nước, cần được coi trọng và thực hiện nhất quán. Việc lựa chọn Ban giám đốc và các thành viên khác trong Hội đồng quản trị nên được tiến hành trên năng lực thực sự của họ. Hội đồng quản trị nên có đủ số lượng thành viên cần thiết là cổ đông bên ngoài và cần xây dựng tiêu chuẩn cao về tính minh bạch và công khai. Việt Nam cũng có thể áp dụng hệ thống đánh giá kết quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước của Hàn Quốc đi đôi với việc xây dựng chính sách khen thưởng hấp dẫn cũng như nguyên
Có thể bạn quan tâm!
- Một Số Khó Khăn Và Vướng Mắc Trong Hình Thành Và Phát Triển Tập Đoàn Kinh Tế Tại Việt Nam
- Xu Hướng Phát Triển Của Tập Đoàn Kinh Tế Khi Việt Nam Hội Nhập Vào Nền Kinh Tế Thế Giới
- Kinh Nghiệm Phát Triển Tập Đoàn Kinh Tế Của Hàn Quốc
- Thực trạng và giải pháp phát triển tập đoàn kinh tế ở Việt Nam - 11
- Thực trạng và giải pháp phát triển tập đoàn kinh tế ở Việt Nam - 12
Xem toàn bộ 96 trang tài liệu này.
tắc cấm sự tham gia của các quan chức Chính phủ vào hoạt động quản lý điều hành các doanh nghiệp nhà nước hay tiến hành tuyển chọn ban giám đốc thông qua đấu thầu công khai.
Cuối cùng, Việt Nam nên xây dựng hệ thống quản trị doanh nghiệp riêng của mình, ví dụ, bằng cách nâng cao vai trò của người lao động trong doanh nghiệp. Để kiềm chế khả năng xảy ra sự lạm dụng quyền lực của người lao động, các ngân hàng thương mại nên được khuyến khích đóng vai trò nào đó trong doanh nghiệp sau khi đã tiến hành tái cơ cấu và cải cách hệ thống quản trị Công ty.
II. CÁC NHÓM GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN TẬP ĐOÀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
Việc hình thành Tập đoàn kinh tế ở nước ta là tất yếu khách quan đòi hỏi vừa phải kết hợp với các nguyên tắc của thị trường vừa sử dụng 1 cách chủ động, linh hoạt các chính sách của nhà nước để tác động có hiệu quả nhất. Để xây dựng và phát triển thành công mô hình Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam cần tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp cơ bản sau:
1. Nhóm giải pháp hoàn thiện môi trường pháp lý để phát triển Tập đoàn kinh tế
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật cần thiết cho các Tập đoàn kinh tế hoạt động như các thực thể kinh tế độc lập: Nhà nước đã có những chính sách tạo ra môi trường pháp lý thích hợp với mô hình Tập đoàn kinh tế. Tạo ra khung cơ chế thực sự cho việc hình thành và phát triển Tập đoàn kinh tế, xác định rõ nội dung, kể cả phương diện pháp lý như địa vị pháp lý của Tập đoàn kinh tế, quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của các doanh nghiệp trong Tập đoàn kinh tế, báo cáo hợp nhất, nộp thuế, quan hệ trong nội bộ Tập đoàn kinh tế.
Nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật: Trước hết, các quyết định ban hành cần đề cập đúng bản chất và đặc thù về mô hình, tổ chức quản lý và hoạt động của Tập đoàn kinh tế. Trong chiến lược phát triển Tập đoàn kinh tế phải kiểm tra, kiểm soát thị trường bằng những biện pháp mà chúng ta đã cam kết khi gia nhập WTO, bao gồm:
Về luật pháp, chính sách, triển khai thực hiện có hiệu quả Luật doanh nghiệp đã ban hành. Nhà nước đã xây dựng các văn bản hướng dẫn và qui định khác có liên quan đến hoạt động đầu tư, kinh doanh của các Tập đoàn
kinh tế nhưng vẫn chưa đầy đủ. Cần rà soát và có chương trình triển khai theo đúng tiến độ các cam kết hội nhập liên quan đến mở cửa thị trường; công bố các cam kết của nước ta với các nước trong các Hiệp định song phương và đa phương tạo ra sự minh bạch về các điều kiện phát triển Tập đoàn kinh tế, nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của môi trường đầu tư nhằm phát triển Tập đoàn kinh tế ở nước ta.
Về thủ tục hành chính, rà soát các vướng mắc về thủ tục hành chính ở tất cả các lĩnh vực, các thủ tục liên quan tới triển khai dự án đầu tư như thủ tục về đất đai, xuất nhập khẩu, cấp dấu, xử lý tranh chấp... Đồng thời, cần tập trung xử lý dứt điểm các vướng mắc trong quá trình cấp, điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư và các vấn đề vướng mắc trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tham gia hình thành các Tập đoàn kinh tế.
Về kết cấu hạ tầng, tiếp tục tập trung nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng nói chung, trước mắt giải quyết tốt vấn đề nhu cầu năng lượng cho các doanh nghiệp. Có cơ chế khuyến khích tư nhân đầu tư phát triển các công trình kết cấu hạ tầng, trong đó có các nhà máy điện độc lập, các công trình giao thông, cảng biển...
Về lao động, tiền lương, tăng cường công tác đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, từng bước đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động của các Tập đoàn kinh tế. Đặc biệt chú ý đào tạo, xây dựng được đội ngũ những nhà quản trị trẻ tài năng. Bên cạnh đó, phải khắc phục tình trạng đình công bất hợp pháp trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã diễn ra trong thời gian qua. Đồng thời nâng cao vai trò của tổ chức công đoàn trong các Tập đoàn kinh tế, đặc biệt là trong các Tập đoàn kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Về phát triển công nghiệp phụ trợ, triển khai các giải pháp đồng bộ để phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư vào phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ phục vụ trực tiếp cho việc hình thành các Tập đoàn kinh tế
Về xúc tiến đầu tư,thúc đẩy triển khai kết quả từ các cuộc vận động đầu tư của Việt Nam tại các nước trong thời gian qua. Nghiên cứu để có các giải pháp thu hút đầu tư thích hợp đối với các Tập đoàn kinh tế lớn, các Tập đoàn
xuyên quốc gia (TNCs) của một số nước phát triển, trước hết là Nhật Bản, Hoa Kỳ và EU. Sự thu hút này diễn ra theo cả hai hướng: Thực hiện những dự án lớn, công nghệ cao hướng vào xuất khẩu và tạo điều kiện để một số Tập đoàn xuyên quốc gia xây dựng các trung tâm nghiên cứu phát triển, xây dựng vườn ươm công nghệ gắn với đào tạo nguồn nhân lực. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài giàu tiềm năng tiến hành đầu tư vào Việt Nam.
2. Nhóm giải pháp khuyến khích thành lập Tập đoàn kinh tế
Xây dựng môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi cho việc hình thành Tập đoàn kinh tế. Ban hành các chính sách tài chính đối với các tổng Công ty để tạo điều kiện cho các tổng Công ty tự tích tụ vốn, chủ động tái đầu tư phát triển và chú trọng nuôi dưỡng nguồn thu.
Phát triển các thị trường tài chính, lao động, bất động sản, thị trường vốn, công nghệ tạo ra sự đồng bộ liên kết hỗ trợ lẫn nhau giữa các thị trường này trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi hình thành các Tập đoàn kinh tế.
Khuyến khích hỗ trợ và thúc đẩy hình thành các Tập đoàn kinh tế: Nhà nước cần quan tâm hơn nữa chính sách huy động vốn qua kênh cổ phần hóa, qua thị trường chứng khoán, các chính sách khác như chính sách khoa học, công nghệ cũng tạo động lực mạnh để hình thành và phát triển Tập đoàn kinh tế. Phải nhanh chóng tạo ra cơ chế, chế tài, quy chế để các Tập đoàn kinh tế hoạt động một cách thuận lợi, đạt được những tiêu chuẩn của xu thế phát triển Tập đoàn kinh tế trên thế giới, từng bước nâng cao sức cạnh tranh của các Tập đoàn kinh tế trong nước với các Tập đoàn kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
3. Nhóm giải pháp hỗ trợ các Tập đoàn kinh tế phát huy vai trò và tác dụng là những “ trọng điểm và mũi nhọn kinh tế”.
Tăng cường tích tụ về vốn, nâng cao khả năng cạnh tranh và tối đa hóa lợi nhuận, trong đó điểm mấu chốt là tập trung sắp xếp đổi mới quản lý, xác lập lại cơ cấu sản xuất kinh doanh, lành mạnh hóa các quan hệ tài chính trong quá trình đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi hơn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các Tập đoàn kinh tế. Phải nhanh chóng đổi mới tư duy về phát triển Tập đoàn kinh tế từ các doanh
nghiệp trong nước. Đồng thời, từng bước xây dựng một thể chế phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam, phát triển Tập đoàn kinh tế từ các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Mấy năm gần đây, Chính phủ rất quan tâm phát triển hạ tầng và tạo điều kiện thuận lợi cho các Tập đoàn kinh tế phát triển theo xu hướng này.
Phải khẩn trương xây dựng quy chế tổ chức và quy chế tài chính của Tập đoàn kinh tế để các Tập đoàn kinh tế sớm đi vào hoạt động có hiệu quả. Việc tiến hành chia tách, sáp nhập, đòi hỏi có cơ chế rõ ràng, đảm bảo cho các Tập đoàn kinh tế hoạt động tốt, đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế, đồng thời bảo đảm việc làm cho người lao động.
Các Tập đoàn kinh tế cần tiếp tục đổi mới trên cơ sở tiến hành sắp xếp các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp trong khu vực dịch vụ mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn thì sớm tiến hành cổ phần hóa. Một số đơn vị đã tiến hành theo mô hình Công ty cổ phần và đang có uy tín trên thị trường chứng khoán thì đưa lên sàn giao dịch chứng khoán. Cần nghiên cứu triển khai dịch vụ mới trên cơ sở phát huy năng lực của đội ngũ cán bộ công nhân, viên chức và lực lượng, cơ sở vật chất có sẵn. Những ngành nghề, lĩnh vực đang được phép thí điểm hình thành Tập đoàn kinh tế thì phải sớm tổng kết, đánh giá để hoàn thiện các kinh nghiệm về Tập đoàn kinh tế.
Các Tập đoàn kinh tế đang hoạt động, cần sớm trình Chính phủ kế hoạch phát triển theo từng giai đoạn, trong đó nhấn mạnh giải pháp phát triển về công nghệ, thể hiện vai trò Tập đoàn kinh tế là mũi nhọn phát triển kinh tế của đất nước.
Các Tập đoàn kinh tế cần tăng cường quan hệ hợp tác quốc tế, mở cửa với bên ngoài. Chính phủ Việt Nam đã cam kết tiếp tục ủng hộ và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư kinh doanh tại thị trường Việt Nam.
Điều lệ hoạt động, quy chế tài chính của các Tập đoàn kinh tế phải được soạn thảo với sự vận dụng sáng tạo các chủ trương và khuôn khổ thử nghiệm mà Chính phủ cho phép và việc áp dụng kinh nghiệm của các Tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới.
Bước sang thế kỷ của nền kinh tế tri thức, các Tập đoàn kinh tế cần có
mục tiêu về phát triển khoa học công nghệ, khẳng định và đẩy mạnh vai trò nghiên cứu khoa học công nghệ gắn với sản xuất kinh doanh của Tập đoàn kinh tế, đặc biệt chú ý phát triển mạnh các tiềm năng về vật chất và nhân lực để có thể tiếp cận công nghệ mới của thế giới. Bên cạnh đó, cần xây dựng các cơ chế chính sách nhằm thu hút vốn cho các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ tại các Tập đoàn kinh tế thông qua hoạt động hợp tác và trao đổi kinh nghiệm với các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực quản lý và phát triển công nghệ.
4. Nhóm giải pháp thúc đẩy sự hình thành và phát triển các loại hình Tập đoàn kinh tế.
Để thúc đẩy sự hình thành và phát triển các loại hình Tập đoàn kinh tế cần phải dựa vào các tổng Công ty nhà nước với một số chính sách sau:
Chính sách thúc đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư và liên kết kinh doanh của các doanh nghiệp. Chính sách này hướng vào việc đẩy mạnh cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu doanh nghiệp nhà nước, phát triển thị trường chứng khoán, thúc đẩy liên kết kinh doanh giữa các doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài.
Hoàn thiện về tổ chức và thể chế tạo điều kiện cho hoạt động của Tập đoàn. Đó là cơ chế một đầu mối thực hiện chức năng chủ sở hữu Nhà nước đối với phần vốn nhà nước tại Công ty mẹ của Tập đoàn. Bên cạnh đó là việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về Công ty tài chính, trong đó có hướng dẫn cụ thể về Công ty tài chính của các Tập đoàn kinh tế.
Đối với Tập đoàn kinh tế hình thành trên cơ sở các tổng Công ty Nhà nước, cần có hướng dẫn về vấn đề liên quan đến báo cáo tài chính hợp nhất của các đơn vị doanh nghiệp là thành viên của Tập đoàn kinh tế. Báo cáo tài chính hợp nhất là báo cáo tổng hợp của cả Công ty mẹ và các Công ty con, sau khi loại trừ những chi phí giao dịch trong nội bộ Tập đoàn kinh tế, sẽ phản ánh chính xác giá trị sản phẩm và lợi nhuận thực đạt được. Trong đó, quy định các giao dịch tài chính giữa các doanh nghiệp thành viên Tập đoàn phải được báo cáo đầy đủ và công
khai. Báo cáo này do Công ty mẹ thực hiện. Công ty mẹ tổng hợp báo cáo quyết toán tài chính của các Công ty con do Công ty mẹ nắm giữ toàn bộ vốn và Công ty con có cổ phần, vốn góp chi phối và báo cáo lên đầu mối chủ sở hữu Nhà nước. Báo cáo tài chính hợp nhất của Tập đoàn phải đề cập đến vốn, nợ, chi phí, doanh thu, lợi nhuận, thuế thu nhập của cả Tập đoàn sau khi đã loại bỏ các giao dịch giữa Công ty mẹ và các Công ty con cũng như giữa các Công ty con với nhau. Khi tính vốn của Tập đoàn, báo cáo tài chính hợp nhất không tính khoản đầu tư cổ phần hoặc vốn góp của Công ty mẹ vào các Công ty con hoặc giữa các Công ty con.
Chính sách đối với các tổng Công ty xây dựng đề án phát triển thành Tập đoàn kinh tế, hiện nay cần khẳng định quan điểm có nên thành lập chính sách riêng trong một giai đoạn nhất định đối với các tổng Công ty xây dựng đề án phát triển thành Tập đoàn kinh tế. Kinh nghiệm của Trung Quốc đã có chính sách riêng đối với những doanh nghiệp xây dựng đề án phát triển thành Tập đoàn kinh tế và điều này là cần thiết. Đối với các tổng Công ty của Việt Nam, cần đổi mới chính sách phân phối lợi nhuận cho các tổng Công ty có xây dựng đề án hình thành Tập đoàn kinh tế trong thời gian nhất định, nhằm tạo điều kiện và động lực cho các doanh nghiệp xây dựng đề án phát triển thành Tập đoàn kinh tế. Nên cho phép Công ty mẹ sử dụng phần lợi nhuận sau thuế, phân chia theo nguồn vốn Công ty mẹ tự huy động để tăng vốn tại Công ty mẹ để tăng tốc độ và khả năng tích tụ, tập trung vốn của các Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam.
Về thuế thu nhập doanh nghiệp, tuỳ tính chất và đặc thù của Tập đoàn, cho phép Tập đoàn thí điểm nộp thuế theo một trong hai phương thức sau đây:
Một là, phương thức nộp theo loại hình doanh nghiệp, tức là Công ty mẹ và các Công ty con có 100% vốn sở hữu của Công ty mẹ, thì nộp chung thuế với mức thuế được tính theo tổng doanh thu hoặc lợi nhuận của toàn bộ các Công ty này.
Hai là, phương thức nộp theo loại hình hoạt động. Đối với các hoạt động kinh doanh riêng rẽ, từng doanh nghiệp thành viên sẽ nộp thuế theo quy định hiện hành. Đối với các hoạt động mang tính chất chung, dây chuyền