Cơ Sở Lý Luận Về Quản Lý Hoạt Động Học Tập Của Sinh Viên Ngành Giáo Dục Tiểu Học


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN NGÀNH GIÁO DỤC TIỂU HỌC‌

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề quản lý hoạt động học tập

1.1.1. Nghiên cứu về hoạt động học tập‌

Ngay sau cuộc cách mạng tháng tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục cuộc vận động học tập, bồi dưỡng nhân tài đất Việt góp phần xây dựng lại đất nước. Hồ Chí Minh (1947) đã động viên toàn dân: “Phải tự nguyện, tự giác xem công việc học tập là nhiệm vụ của người cách mạng, phải cố gắng hoàn thành cho được do đó mà tích cực, tự động hoàn thành kế hoạch học tập”. Người còn chỉ rõ: “Về việc học phải lấy tự học làm cốt” (Hồ Chí Minh, 1990). Qua đó, việc học tập được đặt lên hàng đầu, xã hội có trách nhiệm tạo điều kiện cho người học tiếp tục học tập, yếu tố thúc đẩy kết quả học tập tốt là tinh thần chủ động, chủ động nhận thức được vấn đề, đặt mục tiêu học tập, lập kế hoạch tự tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm của người đi trước, đặt ra phương hướng phấn đấu trong học tập.

Tác giả Nguyễn Đức Quang (2013) có nghiên cứu về “ Vấn đề tổ chức, quản lý trường phổ thông công lập ở TPHCM”, đề tài nghiên cứu về sự phát triển của hệ thống trường ngoài công lập tại Việt Nam và trên thế giới từ trước năm 1975; Các vấn đề tổ chức, vấn đề dạy thêm, học thêm, học phí, cơ sở vật chất. Các vấn đề đã được khảo sát từ thực trạng tại cơ sở giáo dục và cần nghiên cứu thêm các hướng giải quyết phù hợp ở bậc học này. Thông qua nghiên cứu thực trạng tác giả đưa ra nhiều luận điểm về công tác tổ chức, quản lý hoạt động của trường công lập từ xưa đến nay trong vấn đề học tập, bước đầu có cơ sở nghiên cứu cho các vấn đề liên quan khi tác giả làm rõ một số vấn đề cốt lỗi của hoạt động học tập. Từ việc nghiên cứu lý luận, vận dụng vào thực trạng làm minh chứng cho vấn đề nghiên cứu, tác giả đưa ra một vài kết luận liên quan đến tổ chức quản lý hoạt động học tập tại một số trường công lập.

Tác giả Nguyễn Đức Quang (2013) có nghiên cứu về “Tổ chức hoạt động học”, Nguyễn Duy Cần nghiên cứu về “Tôi tự học”, Đỗ Linh - Lê Văn nghiên cứu về “Phương pháp học tập hiệu quả” Nguyễn Văn Hấn nghiên cứu “Làm sao để học hiệu quả”, Quang Hồng nghiên cứu “Bí quyết học tập hiệu quả”. Qua các công trình nghiên cứu, tác giả đã tìm hiểu nhiều khía cạnh của vấn đề học tập, nghiên cứu về phương pháp học tập hiệu quả cải thiện hiệu quả trong việc học, từ những cơ sở về lý luận của các nhà giáo dục, cần tiếp tục nghiên cứu và đào sâu những kiến thức liên quan hướng khắc phục thực trạng vấn đề học tập.

Vấn đề học tập là vấn đề muôn thuở, bất cứ thời điểm nào khi tổ chức nghiên cứu sẽ có kết quả khác nhau cả về tích cực và tiêu cực, khi nghiên cứu một mặt của vấn đề sẽ có nhiều thứ phát sinh xung quanh, quan trọng hơn hết là phải có cái nhìn bao quát toàn diện hoạt động học tập. Và phương pháp học tập hiệu quả được chọn làm đề tài của nhiều tác giả dưới nhiều biện pháp hữu ích cho người học trong quá trình thực hiện hoạt động học tập.

Theo tác giả Lê Thanh Hải (2016) nghiên cứu nhận định rằng: “Bản chất của hoạt động giáo dục là quá trình chuyển hóa tự giác, tích cực những yêu cầu của các chuẩn mực xã hội thành ý thức thái độ hành vi và thói quen hành vi tương ứng”. Như vậy, chủ


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

thể người học đóng vai trò quan trọng trong hoạt động học nhưng yếu tố quyết định là sự tự giác tìm kiếm kiến thức và hành vi này cần phải được thực hiện lập đi lập lại nhiều lần từ đó hình thành thói quen của hành vi.

Hoạt động giáo dục được diễn ra trong sự vận động tích cực của người dạy và người học, hai hoạt động này diễn ra song song luôn hỗ trợ cho nhau, người dạy muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ truyền đạt kiến thức nhất thiết phải có sự hợp tác của người học trong việc học tập. Ngược lại, người học muốn lĩnh hội được vốn kiến thức cần có người dạy hướng dẫn cách tiếp cận hiệu quả. Thông qua hoạt động học người học tiếp nhận kiến thức, bản thân tự đánh giá kiến thức, nắm vững quy luật, hình thành nhu cầu thay đổi bản thân cho hòa nhập với xã hội, biến đổi kiến thức của nhân loại đã học thành của cá nhân bằng cách thể hiện hành vi, tỏ thái độ trước vấn đề, có cách giải quyết mang tính cá nhân phù hợp với quy luật.

Thực trạng quản lý hoạt động học tập của sinh viên ngành giáo dục tiểu học tại trường đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh - 3

Tác giả Lê Thanh Hải (2016) nghiên cứu “Tiếp cận hiện đại hoạt động dạy học” ông viết: “Bản thân con người có nhu cầu hoạt động cho mình, chỉ cần chuyển giao cho họ hoạt động đúng, phù hợp với sự tích cực tự nhiên của con người”. Qua đó, tác giả muốn nhắc đến yếu tố tiếp cận phải phù hợp với từng cá nhân người học, với mỗi cá nhân có tính cách khác nhau thì cần có phương pháp học khác, tùy vào mục đích, đối tượng mà người chủ thể tác động một cách linh hoạt, giúp người học chủ động học thêm kiến thức, vận dụng kiến thức vào thực tế một cách hiệu quả tốt nhất.

Nhìn chung, nhiều nhà giáo dục đã có sự tìm hiểu chung về các khía cạnh khác nhau của vấn đề học tập mà chưa nghiên cứu cụ thể trên một nhóm đối tượng, thông qua các nghiên cứu cho thấy rõ vấn đề học tập là muôn thuở, con người muốn phát triển cần phải thường xuyên học tập. Hiện nay, với sự phát triển về kinh tế việc tìm kiếm một cuốn sách để đọc là không khó hoặc tìm kiếm về các video chia sẽ kinh nghiệm học tập trong một lĩnh vực cụ thể được phổ biến trên toàn thế giới thông qua mạng Internet, công cụ, phương tiện học tập đã có sẳn, nhưng vấn đề ý thức cá nhân người học chủ động phát hiện vấn đề và tiếp tục đào sâu nghiên cứu còn nhiều bất cập nhưng chưa được các nhà nghiên cứu giáo dục tìm hiểu biện pháp thay đổi.

Khi nắm rõ quy luật vận động của quá trình học tập vốn có, biết cách tiếp cận tri thức sau cho phù hợp với hoàn cảnh, bản thân có cái nhìn khách quan mọi sự thay đổi trong quá trình thực hiện, hòa nhập vào xã hội hiện đại, biến đổi kiến thức đã tích lũy thành vốn kinh nghiệm cho cá nhân vận dụng vào cuộc sống, quá trình này diễn ra với khoảng thời gian dài vì cần có sự linh hoạt thay đổi bản thân, học tập cái mới tiến hành sửa đổi cách thức phù hợp bằng đa dạng hướng tiếp cận, nhìn bao quát vấn đề hiện đại có như vậy hoạt động học tập đạt được mục đích với hiệu quả tốt nhất.

1.1.2. Nghiên cứu về quản lý hoạt động học tập‌

Nơi nào có hoạt động diễn ra, nơi đó cần thiết phải có sự quản lý nhằm đảm bảo sản phẩm đầu ra đạt đúng yêu cầu mục tiêu chất lượng đáp ứng nhu cầu của xã hội. Cụ thể, trong lĩnh vực giáo dục bên cạnh một số nghiên cứu về hoạt động học tập được đề cập ở trên còn một số đề tài nghiên cứu liên quan đến đối tượng quản lý giáo dục, cụ thể:

8


Tác giả Phạm Trung Thành (2011) với đề tài luận văn thạc sĩ giáo dục học của mình tác giả quan tâm đến “Thực trạng quản lý hoạt động học tập của học viên trường trung cấp kĩ thuật hải quân”. Thông qua đề tài, tác giả nêu rõ những cơ sở lý luận về hoạt động học tập, những nội dung quản lý hoạt động học tập của học viên trường trung cấp kĩ thuật hải quân (Quản lý về mục tiêu, nhiệm vụ học tập; Quản lý nội dung học tập, Quản lý phương pháp học tập; Quản lý về thời gian học tập), đánh giá được thực trạng học viên trường Hải Quân có nhận thức tương đối về hoạt động học tập.

Tác giả nhận định rằng “Hoạt động học tập của học viên trường trung cấp kĩ thuật Hải quân được thực hiện trong một môi trường đặc biệt, môi trường quân sự, việc học của học viên được bố trí trong một tổ chức đặc biệt, một thời gian cụ thể và thực hiện một chế độ quy định. Ngoài việc thực hiện nhiệm vụ học tập, học viên còn phải tham gia các hoạt động khác như sẳn sàng chiến đấu, xây dựng nền nếp chính quy, rèn luyện kĩ luật, bảo về tổ quốc”.

Qua đề tài, tác giả mô tả cụ thể môi trường học tập tại một trường hải quân, hoạt động học tập bao gồm theo quy chế nhà nước còn yêu cầu học viên hải quân trang bị đầy đủ kĩ năng, tinh thần, sẳn sàng chiến đấu. Vì vậy, qua kết quả khảo sát “đa số SV có nhận thức rõ ràng về mục đích học tập, vai trò của người học trong hoạt động dạy học”

Từ đó, có thể hiểu rằng quá trình học tập của sinh viên không hoàn toàn tác động bởi yếu tố cá nhân sinh viên mà sự tác động của giảng viên môn học rất quan trọng vì là người trực tiếp định hướng hoạt động học tập của sinh viên, để có thể tác động đến sinh viên trong quá trình tổ chức học tập người giảng viên cần có kinh nghiệm, nắm bắt tâm lí, khả năng thực hiện của sinh viên từ đó có định hướng về cách thức thực hiện nhiệm vụ học tập chuyên ngành quản lý phù hợp với mục tiêu chương trình đào tạo.

Với mục đích lấy người học làm trung tâm trong hoạt động dạy học, người GV có vai trò cốt lỗi trong quá trình thực hiện, với nhiệm vụ dẫn dắt, thực hành mẫu, góp ý sửa đổi, khuyến khích, tạo động lực cho người học tiếp tục học tập nâng cao kĩ năng. Vị trí của người học cũng nâng lên một tầm quan trọng mới là được sự công nhận về khác biệt, có ý kiến mở rộng vấn đề, tự do học theo sở thích nhưng dưới sự quản lý của nhà giáo dục.

Theo Nguyễn Thanh Sơn (2012) “Thay đổi nhận thức về việc học, dạy cách học, xây dựng tập thể lớp học, tổ chức và quản lí hoạt động học, tạo điều kiện cho việc học, phối hợp quản lí hoạt động học... Nhằm đào tạo sinh viên thành những con người phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”

Đặc thù của SV mới vào trường đại học là nhận thức về việc học đại học chưa rõ ràng do nhiều tác động bên ngoài như môi trường sống, môi trường học tập, xa gia đình vậy nên cần sự định hướng đúng đắn của đội ngũ GV trường đại học cung cấp kĩ năng sống khi học ở môi trường đại học ngay từ đầu năm học, thường xuyên quan tâm giám sát hỗ trợ kịp thời bố trí chổ ăn ở, phương tiện đi lại, tức là đảm bảo nhu cầu sinh hoạt hằng ngày, từ đó bắt đầu tổ chức phương pháp học tập hiệu quả.

9


Sự phối hợp các lực lượng giáo dục trong nhà trường trong giai đoạn này được chú ý, xác định nhiệm vụ quyền hạn của các bộ phận cùng hợp tác giáo dục SV đúng đắn.

Tác giả Lương Ngọc Hải (2013) nghiên cứu “Thực trạng quản lý hoạt động học tập theo học chế tín chỉ tại trường đại học sư phạm TP.HCM”, qua nghiên cứu thực trạng cho thấy việc quản lý hoạt động học tập theo hệ thống tín chỉ tại trường ĐH Sư phạm TP.HCM luôn được CBQL quan tâm thực hiện. Công tác đăng kí học tập của sinh viên còn nhiều sai sót và chưa thuận lợi. Ngoài ra, tác giả đưa ra nhận định rằng “Công tác quản lý hoạt động học tập của sinh viên phải gắn liền với hoạt động giảng dạy của giảng viên, hai hoạt động này phải diễn ra đồng bộ với nhau thì mới đạt được kết quả tốt”. Qua khảo sát thực trạng, “việc quản lý hoạt động học tập theo hệ thống tín chỉ tại trường Đại học Sư phạm TP.HCM luôn đươc coi trọng và được cán bộ GV, SV quan tâm. Thực tế, việc quản lý công tác chuẩn bị học tập, công tác quản lý hoạt động học tập trên lớp, quản lý hoạt động học tập ngoài giờ lên lớp, quản lý kiểm tra đánh giá kết quả học tập. Công tác đăng kí học tập của SV được thực hiện còn nhiều sai sót và chưa thuận lợi cho SV”

Hoạt động học tập sẽ mang lại hiệu quả tốt hơn khi người học được trang bị đầy đủ công cụ học tập trong đó có việc đăng khi học phần học tập. Bên cạnh đó, công tác quản lý đội ngũ GV luôn đồng hành cùng quản lý học tập của SV học tập tại trường .

Tác giả Nguyễn Đức Quang (2013) với đề tài “Thực trạng quản lý hoạt động học tập ở các trường phổ thông ngoài công lập tại TP.HCM”, qua kết quả khảo sát thực trạng tác giả nhận định “Chức năng quản lý đã được các CBQL, GV nhà trường vận dụng hiệu quả, đặc biệt là chức năng kiểm tra đánh giá và chỉ đạo thực hiện kế hoạch”, xác định một số nguyên nhân của thực trạng, từ đó đề xuất một số biện pháp vào các nội dung và chức năng quản lý nêu trên nhằm tháo gỡ, khắc phục hạn chế trong công tác quản lý hoạt động học tập tại một số trường phổ thông công lập. Với đối tượng là hoạt động học tập của học sinh ngoài công lập sẽ có hoạt động quản lý phù hợp với đặc điểm của nhà trường, vì đây là trường ngoài công lập, có đủ điều kiện tổ chức hoạt động học tập cho học sinh hơn các trường công lập.

Tác giả Lê Thanh Hải (2016) với đề tài “Quản lý hoạt động học tập của sinh viên ngành quản lý giáo dục ở các trường đại học tại TP.HCM”, qua việc nghiên cứu thực trạng học tập của sinh viên tại trường, tác giả mô tả tổng quan về tình hình học tập của sinh viên tại trường đạt được nhiều hiệu quả tích cực, bên cạnh đó tác giả nhấn mạnh đến thực trạng lập kế hoạch học tập của sinh viên còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân tác động từ đó đề xuất một số biện pháp cải thiện hiệu quả quản lý hoạt động học tập của sinh viên.

Hoạt động học tập của SV ngành QLGD là hoạt động đặc thù, cần SV có tư duy logic, hệ thống vấn đề lý luận, rèn luyện tự giác trách nhiệm hình thành phẩm chất của người cán bộ quản lý giáo dục tương lai.

Tóm lại, từ các đề tài nghiên cứu về lĩnh vực đặc thù của ngành giáo dục là quản lý, các tác giả đã mô tả tổng quan về lĩnh vực học tập trên một số đối tượng cụ thể thấy rõ thực trạng quản lý hoạt động học tập theo thời gian có sự khác biệt rõ rệt do nhiều nguyên nhân tác động vào người học và đội ngũ GV, CBQL tại trường. Tuy nhiên, chưa có đề tài nghiên cứu sâu về thực hiện nội dung trong quản lý hoạt động học tập cụ thể

10


là của đội ngũ GV tác động lên sinh viên thực hiện một số yêu cầu nhằm đáp ứng mục tiêu đào tạo trong quá trình học tập chuyên ngành GDTH.

1.2 Một số khái niệm cơ bản‌

1.2.1. Quản lý‌

Quản lý là hoạt động tất yếu của con người trong quá trình vận động nhằm duy trì sự sống, đáp ứng nhu cầu của cá nhân. Hoạt động diễn ra ở mọi nơi, nơi nào có con người tồn tại sẽ có hoạt động tất nhiên sẽ hình thành nên quản lý. Cá nhân khi tham gia hoạt động đã hình thành nên quản lý: quản lý về thời gian, mục tiêu, kế hoạch, nội dung, cách thức thực hiện. Với tập thể, quản lý bản chất vẫn không thay đổi, mà người chủ thể quản lý vừa quản lý được chính bản thân vừa quản lý được cá thể khác, đòi hỏi người chủ thể có khả năng dẫn dắt tập thể, cùng thống nhất nhiệm vụ, quyền hạn để thực hiện đạt hiệu quả mục tiêu chung. Từ thực tiễn cuộc sống đã qua, người xưa đã rút ra một số quan niệm về quản lý.

Theo Các Mác (1993) “Bất cứ một lao động mang tính chất xã hội trực tiếp hay lao động cùng nhau, được thực hiện ở quy mô tương đối lớn, đều cần đến mức độ nhiều hay ít sự quản lý, nhằm thiết lập sự phối hợp giữa những công việc cá nhân và thực hiện những chức năng chung, nảy sinh từ vận động của toàn bộ cơ chế sản xuất, khác với sự vận động của các cơ quan độc lập của nó. Một người chơi vĩ cầm riêng lẻ tự điều khiển mình, còn dàn nhạc thì cần người chỉ huy”.

Nhằm đáp ứng mọi nhu cầu cuộc sống vừa cho cá nhân và mong muốn mang lại lợi ích đến mọi người, cùng hướng đến mục tiêu chung bằng cách chia sẽ công việc cùng nhau thực hiện, thay đổi nhận thức của xã hội một cách bền vững, duy trì những giá trị. Khi hợp tác thực hiện công việc nhất thiết cần có cơ cấu tổ chức sắp xếp công việc, xác định nhiệm vụ, vai trò, giá trị lợi ích mang lại, như vậy trong một tập thể cần chọn ra một người có đủ khả năng dẫn đầu, quan sát, giám sát, hướng dẫn các thành viên thực hiện. Qua đó, muốn tập thể được tồn tại, cần có người quản lý, người chịu sự quản lý, cơ chế thực hiện để đạt được mục tiêu chung của xã hội.

Theo Vũ Dũng (1995) "Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất"

Việc đầu tiên của người quản lý cần làm là xác định mục tiêu, sắp xếp công việc cần làm để thực hiện mục tiêu, xác định người thực hiện, quy chế quản lý thực hiện, đặt ra chuẩn yêu cầu công việc làm cơ sở cho việc giám sát đánh giá. Một người quản lý giỏi là người có tầm nhìn xa trông rộng, dự báo được điều sắp xảy ra trong tương lai, phán đoán hướng xảy ra tiếp theo, từ đó dự kiến cách giải quyết phù hợp một cách linh hoạt. Tuy nhiên, do đặc thù quản lý là quản lý con người với người, việc người quản lý nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu của các thành viên trong quá trình thực hiện công việc được giao là yếu tố quan trọng, muốn quản người thì cần hiểu người.

Theo Phạm Minh Hạc (1986) “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra”.

Nhắc tới quản lý là nhắc đến công cụ của quản lý, muốn tác động vào quy trình thực hiện, xây dựng một cơ cấu tổ chức cùng với mục đích thực hiện mục tiêu sao cho

11


hiệu quả tốt nhất nhưng vẫn đảm bảo chất lượng. Sự tác động của người chủ thể có ý nghĩa tới kết quả thực hiện, nếu tác động phù hợp sẽ mang lại hiệu quả tốt, ngược lại, sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng, làm chậm tiến độ thực hiện công việc của tổ chức, ảnh hưởng đến lợi ích chung của tập thể.

Quản lý ngoài thực hiện tốt các nhiệm vụ của người quản lý theo quy luật, còn cần có kĩ năng thích ứng với sự thay đổi, vì lý thuyết quản lý là cái cốt lỗi cần nắm và muốn tri thức được khắc sâu thì gắn nó với thực tế, tùy thuộc vào từng thời điểm vận dụng mà có cách xử lý khác nhau, sử dụng đa dạng hình thức quản lý phù hợp với quy định, vẫn đảm bảo thực hiện đạt hiệu quả mục tiêu đặt ra.

Theo tác giả Phạm Minh Hạc (1986) "Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra”.

Quản lý có hai hình thức là thực hiện quản lý theo chức năng hoặc quản lý theo nội dung. Hai hình thức này được sử dụng phổ biến nhất trong quản lý hiện nay vì những ưu điểm mang lại, tùy thuộc vào tính chất công việc mà người quản lý chọn theo cách quản lý phù hợp. Trong phạm vi khái niệm, người nghiên cứu phân tích định nghĩa quản lý theo chức năng quản lý. Chức năng thứ nhất là kế hoạch hóa, đây là hoạt động đầu tiên, là cơ sở, tiền đề kim chỉ nam của toàn bộ quá trình quản lý, kĩ năng lập kế hoạch là điều cần của người quản lý, vì đây là “kịch bản” của quá trình hoạt động quản lý, mọi hoạt động xảy ra đều được chủ thể quản lý xác định trước và sẽ diễn ra theo đúng trình tự. Tổ chức là hoạt động phân công, sắp xếp, hướng dẫn đối tượng bị quản lý thực hiện các công việc và người thủ trưởng đơn vị chịu trách nhiệm trước xã hội về kết quả làm được, như vậy việc xây dựng một tổ chức vững mạnh, tập thể đoàn kết, thống nhất thực hiện mục tiêu chung. Lãnh đạo là tạo điều kiện cho cá nhân thực hiện, thường xuyên chỉ dẫn, định hướng, làm mẫu cho cấp dưới thực hiện đúng. Kiểm tra là hoạt động diễn ra xuyên suốt và đan xen vào trong quá trình thực hiện, dựa trên chuẩn đánh giá đã xác định, so sánh với kết quả thực hiện nhằm đạt được mục tiêu đã định

Tóm lại, quản lý là hoạt động của chủ thể quản lý bằng cách sử dụng linh hoạt các chức năng quản lý vào quá trình thực hiện để đạt được mục tiêu ban đầu với hiệu quả cao nhất.

Theo tác giả Nguyễn Thanh Sơn (2012) nhận định rằng “Quản lý là một hoạt động khó khăn, phức tạp nhưng có ý nghĩa rất quan trọng của xã hội loài người. Nhờ có quản lý mà có thể tạo ra sự thống nhất ý chí trong tổ chức (Các thành viên của tổ chức, giữa những đối tượng bị quản lý với nhau và giữa chủ thể quản lý lên đối tượng bị quản lý). Từ đó, mới có thể đạt được mục tiêu đề ra với hiệu quả cao nhất.

Bên cạnh quan hệ tác động giữa chủ thể lên đối tượng bị quản lý, trong hoạt động quản lý còn có mối quan hệ khác như quan hệ giữa đồng nghiệp (tức giữa các đối tượng bị quản lý), quan hệ cá nhân (tức cá nhân chủ thể và cá nhân đối tượng bị quản lý tự quản lý mình), quan hệ đối tượng bị quản lý lên chủ thể quản lý. Với vai trò, trách nhiệm, chức năng của vị trí công việc có cách tác động sao cho thống nhất trong tập thể, góp phần đáp ứng nhu cầu của xã hội đặt ra.

12


Theo Trần Kiểm (2016) “ Hoạt động quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội”. Mặc khác, ông cho rằng “hoạt động quản lý là những hoạt động phối hợp nỗ lực của các cá nhân nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức”.

Hoạt động quản lý hình thành khi có sự tham gia lao động của con người, tùy vào mục đích có hoạt động cá nhân hay hoạt động cùng nhau. Một tổ chức mạnh khi cá nhân tích cực, chủ động thực hiện công việc, đáp ứng nhu cầu khi cá nhân làm việc cho tổ chức như được bồi dưỡng chuyên môn, được trao quyền làm chủ, nhu cầu cuộc sống đảm bảo. Và quản lý diễn ra tại nơi tập thể hoặc một nhóm người xuất hiện, có hoàn cảnh rõ ràng, thời gian quản lý diễn ra song song với thời gian thực hiện đạt mục tiêu.

Theo dòng chảy thời gian mà quan điểm về quản lý được khai thác ở nhiều khía cạnh, nhưng bản chất quản lý chỉ có một, từ việc nghiên cứu các quan điểm của một số nhà giáo dục về quản lý, trong giới hạn đề tài nghiên cứu này tôi hiểu: Quản lý là sự tác động có định hướng, có tính chủ đích của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý về các mặt chính trị, xã hội, văn hóa, kinh tế, giáo dục bằng một hệ thống văn bản qui định của nhà nước về chính sách, phương pháp và biện pháp cụ thể nhằm đạt được mục tiêu với hiệu quả cao nhất.

Quản lý là sự tác động hai chiều của chủ thể quản lý với đối tượng bị quản lý để cùng thực hiện nhiệm vụ đã đặt ra dựa trên sự thống nhất của các bên liên quan. Tức là, chủ thể quản lý tác động đến đối tượng bị quản lý thực hiện nhiệm vụ mà chủ thể quản lý đã giao, ngược lại đối tượng bị quản lý sẽ phản hồi lại với chủ thể quản lý những công việc đã làm, những ý kiến đóng góp giải quyết vấn đề phát sinh, làm cơ sở cho chủ thể có quyết định kịp thời, cả hai bên cùng thực hiện nhiệm vụ trách nhiệm của mình từ đó có sự phối hợp nhịp nhàng nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Tại một thời điểm, không gian được xác định, hoạt động quản lý diễn ra theo kế hoạch đã định tùy thuộc vào mục tiêu ngắn hạn hoặc dài hạn mà thời gian thực hiện có sự dao động.

1.2.2. Quản lý giáo dục‌

Theo tác giả Đinh Ái Linh (2006) “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học - giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên tình trạng mới về chất”.

Quản lý giáo dục là hoạt động quản lý đặc thù của lĩnh vực giáo dục, đây là lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng trong tương lai, với vai trò đóng góp vào sự phát triển đất nước, vấn đề xây dựng một cơ cấu tổ chức quản lý giáo dục rất cần được quan tâm. Hệ thống tác động là bao gồm liên tiếp cách thức cùng tác động vào mục đích với quy trình chặc chẻ, phối hợp nhịp nhàng, có mục đích cụ thể, đặt mục tiêu rõ ràng, xây dựng kế hoạch thực hiện phù hợp với quy luật tồn tại. Nhà nước Việt Nam dưới sự điều hành của Đảng trên mọi lĩnh vực trong đó có giáo dục, được Đảng chú ý quan tâm tạo điều kiện thực hiện giáo dục học sinh, thế hệ trẻ tương lai có đủ điều kiện hội tụ, có tinh thần học hỏi cái mới, sáng tạo không ngừng thông qua quá trình dạy của giáo viên lĩnh hội kiến thức của học sinh. Trong quá trình dạy học, người GV đóng vai trò chủ đạo, là người xây dựng môi trường lớp học, hướng dẫn học sinh tìm kiếm tri thức cái

13


mới, có tư duy tổng hợp, tạo điều kiện HS thể hiện năng lực bản thân; HS dưới sự hỗ trợ của GV tiến hành thực hiện theo hướng dẫn một cách chủ động, thái độ quan điểm rõ ràng, thể hiện chính kiến cá nhân trong học tập, rèn luyện kĩ năng cho bản thân, hình thành nhân cách cá nhân một cách toàn diện.

Quản lý giáo dục là hoạt động có ý thức của con người, chỉ có con người mới có kế hoạch quản lý theo quy trình phù hợp với quy luật chung. Quản lý giáo dục bao gồm quản lý cấp vĩ mô và quản lý cấp vi mô. Trong quản lý cần xác định rõ ai là chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, có như thế xác định rõ ràng đối tượng dễ dàng phân rõ trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn, quy định về quy chế phối hợp.

Quản lý giáo dục (vi mô) là hệ thống những tác động tự giác (Có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, có quy luật) của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, công nhân viên, tập thể học sinh, cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường (Trần Kiểm, 2011).

Trong phạm vi giới hạn về cấp độ quản lý giáo dục ở cấp độ vi mô, quản lý giáo dục là chủ thể quản lý tác động có ý thức, có kế hoạch lên đối tượng bị quản lí bằng các cộng cụ như quy định của luật pháp, quy chế, kế hoạch trường học, điều lệ trường học, chương trình học nhằm thực hiện hoạt động sư phạm đặt được mục tiêu giáo dục.

Trong một nhà trường cụ thể, quản lý nhà trường bao gồm chủ thể quản lý là Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng là hai đại diện cấp cao của một trường học, bên dưới là đội ngũ giáo viên, cán bộ cùng nhau thực hiện công việc dựa trên nhiệm vụ quy định của mình tại trường, đây là đối tượng chịu tác động trực tiếp từ chủ thể quản lý, thông qua đó, chủ thể quản lý được chất lượng HS của trường. Theo cơ cấu chức năng của nhà trường, gồm nhiều bộ phận chuyên trách, mỗi bộ phận đều có cán bộ quản lý, chịu trách nhiệm quản lý chất lượng của một tập thể nhỏ. HS chịu sự quản lý của GV, GV chịu sự quản lý của tổ trưởng chuyên môn, tổ trưởng chịu sự quản lý của phó hiệu trưởng chuyên môn, phó hiệu trưởng là người giúp việc cho hiệu trưởng trong các hoạt động quản lý.

Qua việc phân tích vị trí cơ cấu tổ chức cơ bản của một trường học, người nghiên cứu nhận thấy rõ vai trò, chức năng, trách nhiệm của từng vị trí công việc trong trường học, từ đó xác định mối quan hệ quản lý, chủ thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp, có sự tác động linh hoạt với hoàn cảnh nhiệm vụ hướng tới giáo dục hoàn thiện nhân cách cho học sinh.

Theo Đinh Ái Linh (2006) “Quản lý nhà trường, quản lý giáo dục là tổ chức hoạt động dạy học, tổ chức được hoạt động dạy học thì mới quản lý hoạt động giáo dục, tức là cụ thể hóa đường lối giáo dục của Đảng và biến đường lối đó thành hiện thực, đáp ứng yêu cầu của nhân dân, của đất nước”.

Trường học nơi được trao quyền tổ chức giảng dạy giáo dục người học, là nơi cụ thể thực hiện những định hướng của Đảng đặt ra theo bối cảnh thời đại. Với mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, vai trò dạy học và giáo dục được đặt lên hàng đầu, nhà trường phải tổ chức song song hai hoạt động này, không nên vì chạy theo thành tích mà quên đi cái mục đích lâu dài. Vấn đề đặt ra là quản lý hoạt động dạy học và giáo dục như thế nào vừa đáp ứng mục tiêu vừa hợp với quy định pháp luật.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 27/06/2023