sách hỗ trợ, tái định cư của Nhà nước nhằm nhanh chóng ổn định đời sống và sản xuất;
1.1.1.2. Khái niệm hỗ trợ, tái định cư
Bên cạnh thuật ngữ bồi thường, trong các văn bản pháp luật hiện hành còn đề cập đến khái niệm hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Hỗ trợ, tái định cư thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước và biểu hiện bản chất “của dân, do dân và vỡ dõn” của Nhà nước ta nhằm hỗ trợ, chia sẻ khó khăn với người bị thu hồi đất và giúp họ nhanh chóng ổn định cuộc sống. Vậy hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước là gì?;
Theo khoản 7 Điều 4 Luật đất đai năm 2003: “Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới”; [6, tr1]
Còn đối với khái niệm tái định cư thì Luật đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành lại không đề cập cụ thể về khái niệm này. Hay nói cách khác, pháp luật đất đai hiện hành chỉ đề cập đến thuật ngữ tái định cư mà không giải thích cụ thể nội hàm của khái niệm “tỏi định cư” là gì ? Thậm chí trong các
cuốn từ
điển tiếng Việt và từ
điển Luật học, thuật ngữ
này cũng chưa được
Có thể bạn quan tâm!
- Thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hà Nội - Nguyễn Văn Chiến - 1
- Thực Tiễn Pháp Lý Về Bồi Thường, Hỗ Trợ Và Tái Định Cư Khi Nhà Nước Thu Hồi Đất Của Trung Quốc Và Bài Học Kinh Nghiệm Đối Với Việt Nam
- Nguyên Tắc Chung Về Chi Trả Bồi Thường , Hỗ Trợ Và Tái Định Cư
- Giá Đất Để Tính Bồi Thường Và Chi Phí Đầu Tư Vào Đất Còn Lại
Xem toàn bộ 87 trang tài liệu này.
định nghĩa. Theo Nghị định số 197/2004/NĐCP ngày 03/12/2004 của Chính phủ
về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thì tái định cư
được giải thích là: “Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại Nghị định này mà phải di chuyển chỗ ở thì được bố trí tái định cư bằng một trong các hình thức sau:
1. Bồi thường bằng nhà ở.
2. Bồi thường bằng giao đất ở mới.
3. Bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới.” (Điều 4); [9, tr1] Căn cứ vào quy định này và nội dung các quy định về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất của Luật đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành, chúng ta có thể hiểu: “Tỏi định cư là việc người sử dụng đất được bố trí nơi ở mới bằng một trong các hình thức: bồi thường bằng nhà ở mới hoặc bồi thường bằng giao đất ở hoặc bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới khi họ bị Nhà nước thu hồi đất ở và phải di chuyển chỗ ở”. [16, tr2]
1.1.2. Mục đích, ý nghĩa của việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
Thu hồi đất không chỉ làm chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai (làm chấm dứt quyền sử dụng đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất) mà còn “đụng chạm” đến lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan: Lợi ích của người bị thu hồi đất; lợi ích của Nhà nước, của xã hội; lợi ích của người hưởng lợi từ việc thu hồi đất (các nhà đầu tư, doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân
…). Do vậy trên thực tế việc giải quyết hậu quả của việc thu hồi đất (thực chất là xử lý hài hòa lợi ích kinh tế giữa cỏc bờn) gặp rất khó khăn, phức tạp. Việc giải quyết tốt vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất sẽ mang lại ý nghĩa to lớn trên nhiều phương diện;
1.2.1.1. Về phương diện chính trị
Là một nước nông nghiệp với khoảng 70% dân số là nông dân, vấn đề đất đai ở Việt Nam có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và nhạy cảm. Các chính sách, pháp luật về đất đai có ảnh hưởng rất lớn đến sự ổn định về chính trị. Điều này có nghĩa là nếu chủ trương, chính sách pháp luật đất đai đúng đắn, phù hợp với thực tiễn và được thực thi nghiêm túc sẽ góp phần vào việc duy trì và củng cố sự ổn định chính trị. Ngược lại, sẽ làm phát sinh những điểm nóng tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định về chính trị. Một trong các chính sách, pháp luật về đất đai được xã hội đặc biệt quan tâm đó là chính sách, pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; bởi lẽ mảng chính sách, pháp luật này ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thu hồi đất. Trong trường hợp bị thu hồi đất nói chung và thu hồi đất ở nói riêng, quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất trực tiếp bị xâm hại. Họ không chỉ mất quyền sử dụng đất mà còn buộc phải di chuyển chỗ ở. Hậu quả là cuộc sống thường nhật của họ bị đảo lộn. Với quan niệm truyền thống của người Việt Nam “cú an cư mới lạc nghiệp” thì việc bị mất đất đai, nhà cửa thực sự là một “cỳ sốc” đối với người bị thu hồi đất. Do vậy, họ phản ứng rất gay gắt, quyết liệt thông qua việc khiếu kiện đông người, khiếu kiện vượt cấp, kéo dài nếu không được bồi thường, tái định cư thỏa đáng. Các khiếu kiện về đất đai nói chung và khiếu kiện về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị và dễ phát sinh thành các “điểm núng”; cho nên việc giải quyết tốt vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là thực hiện tốt chính sách an dân để phát triển kinh tế xã hội góp phần vào việc duy trì, củng cố sự ổn định về chính trị.
1.2.1.2. Về phương diện kinh tế xã hội
Thực tiễn cho thấy bồi thường, giải phóng mặt bằng luôn là công việc khó khăn, phức tạp. Các dự án chậm triển khai thực hiện theo tiến độ đề ra có nguyên nhân do công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng không nhận được sự đồng thuận từ phía người dân. Xét dưới góc độ kinh tế, dự án chậm triển khai thực hiện ngày nào là chủ đầu tư, các doanh nghiệp bị thiệt hại đáng kể về lợi ích kinh tế do máy móc, vật tư, thiết bị bị “đắp chiếu”, người lao động không có việc làm trong khi doanh nghiệp vẫn phải trả lương, trả chi phí duy trì các hoạt động thường xuyên và trả lãi suất vay vốn cho Ngân hàng… Vì vậy, thực hiện tốt công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là điều kiện để doanh nghiệp sớm có mặt bằng triển khai các dự án đầu tư góp phần vào việc thúc đẩy tăng trưởng của nền kinh tế và nâng cao tính hấp dẫn của môi trường đầu tư, kinh doanh ở nước ta. Hơn nữa, duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và bền vững sẽ có điều kiện để thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, góp
phần vào công cuộc “xúa đúi, giảm nghốo” và tạo tiền đề triển tiếp theo;
cho các bước phát
Về phía người sử dụng đất, thực hiện tốt bồi thường, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất sẽ
giúp cho họ
và các thành viên khác trong gia đình nhanh
chóng ổn định cuộc sống để tập trung sản xuất góp phần cải thiện và nâng cao mức sống. Hơn nữa điều này cũn giỳp củng cố niềm tin của người bị thu hồi đất vào đường lối, chủ trương, chính sách; pháp luật của Đảng và Nhà nước;
đồng thời loại trừ
cơ hội để kẻ
xấu lợi dụng, tuyên truyền, kích động quần
chúng nhân dân khiếu kiện, đối đầu với chính quyền nhằm gây mất ổn định tình hình trật tự an toàn xã hội và làm đình trệ sản xuất;
1.2. Cơ sở của việc quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư Nhà nước thu hồi đất
khi
Các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất được xây dựng dựa trên những cơ sở lý luận và thực tiễn chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất được đặt ra dựa trên cơ sở quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo hộ. Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận và bảo hộ quyền sở hữu tư nhân về tài sản: “Quyền sở hữu về tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm” (Điều 12). Quyền này tiếp tục được khẳng định trong Hiến pháp năm 1992: “Cụng dõn
có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để
dành, nhà ở, tư
liệu sinh
hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và các tài sản khác trong doanh nghiệp… Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dõn” ( Điều 58) [5, tr1]. Hơn nữa, Hiến pháp năm 1992 còn ghi nhận: “Tài sản hợp pháp của cá
nhân, tổ chức không bị quốc hữu hóa. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị trường…” (Điều 23); [5, tr1]
Như vậy quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của mọi cá nhân và tổ chức đã được Hiến pháp ghi nhận và bảo hộ. Khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì toàn bộ tài sản hợp pháp gắn liền với đất bị thu hồi do người sử dụng đất tạo ra được xác định là tài sản hợp pháp của cá nhân và phải được bồi thường theo giá thị trường. Đối với trường hợp người sử dụng đất bị thu hồi đất ở phải di chuyển chỗ ở, Nhà nước thực hiện chính sách tái định cư cho các đối tượng này;
Thứ hai, xét về bản chất, Nhà nước ta do nhân dân lao động thiết lập nên, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân. Nhà nước theo đuổi sứ mạng cao cả và mang đầy tính nhân văn là phục vụ và chăm lo cho lợi ích, sự phồn vinh của nhân dân. Đặt trong ý nghĩa đó, khi Nhà nước thu hồi đất ở của
người dân để sử
dụng bất kì vào mục đích gì (cho dù sử
dụng vào mục đích
quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát triển kinh tế) mà họ phải di chuyển chỗ ở thì Nhà nước phải có bổn phận và nghĩa vụ bồi thường
và thực hiện việc tái định cư cuộc sống;
nhằm làm cho người sử
dụng đất sớm
ổn định
Thứ
ba, xét về
phương diện lý luận, thiệt hại về
lợi ích của người sử
dụng đất là hậu quả phát sinh trực tiếp từ hành vi thu hồi đất của Nhà nước gây ra. Hơn nữa trong điều kiện Nhà nước pháp quyền, mọi chủ thể trong xã hội bao gồm Nhà nước, công dân, tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị xã hội… đều bình đẳng với nhau trước pháp luật. Nước ta đang từng bước xây dựng một xã hội văn minh và hiện đại nơi mà ở đó quyền lợi hợp pháp của mọi thành viên trong xã hội phải được luật pháp tôn trọng và bảo vệ. Với cách hiểu như vậy, khi Nhà nước thu hồi đất ở mà làm phương hại đến lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất thì Nhà nước không những có trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà còn phải thực hiện việc tái định cư cho họ;
Thứ tư, nước ta đã và đang xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) hướng
tới mục tiêu “dõn giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”
trong điều kiện chịu rất nhiều thách thức do quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đem lại. Để tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức của xu thế toàn cầu hóa về kinh tế, chúng ta phải biết phát huy nội lực, tinh thần đoàn kết dân tộc và khơi
dậy lòng yêu nước, tính năng động, sáng tạo của mỗi người dân đóng góp vào sự nghiệp chấn hưng đất nước. Điều này chỉ có thể thực hiện được khi Nhà nước biết tôn trọng và bảo hộ những quyền lợi chính đáng của người dân. Đây cũng là một lý do dẫn đến việc ra đời các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
Thứ năm, vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất được xây dựng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước giao đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài;
Nhìn lại thành tựu 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước có thể nhận thấy rằng những thành tựu này là kết quả của quá trình đổi mới tư duy mà hạt nhân cơ bản là đổi mới tư duy về sở hữu tài sản. Để giải phóng mọi năng lực sản xuất của người lao động, tạo ra một động lực mới cho sản xuất nông nghiệp, Đảng ta đã rất sáng suốt khi lựa chọn và thực hiện việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp làm khâu đột phá cho toàn bộ quá trình cải cách kinh tế với việc từng bước xác lập địa vị làm chủ của hộ gia đình, cá nhân đối với đất đai thông qua việc giao đất cho họ sử dụng ổn định, lâu dài và mở
rộng các quyền năng cho người sử
dụng đất. Như
vậy, “kể từ
đây quyền sử
dụng đất đã tách khỏi quyền sở hữu đất đai được chủ sở hữu đất đai chuyển giao cho người sử dụng đất thực hiện và trở thành một loại quyền về tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất” hay nói cách khác “Quyền sở hữu đất đai thuộc về toàn dân do Nhà nước đại diện, còn quyền sử dụng đất thuộc quyền sở hữu của người sử dụng đất”. Chính nhờ việc tìm ra cách thức giao quyền sử dụng đất cho người lao động trên cơ sở vẫn giữ nguyên chế độ sở hữu toàn dân về đất đai nhằm duy trì sự ổn định về chính trị xã hội tạo tiền đề cho việc phát triển kinh tế mà Việt Nam và Trung Quốc “gặp nhau” ở điểm chung này và hai nước đã thực hiện thành công cuộc cải cách kinh tế mà không gặp thất bại như Liờn xụ (cũ) và các nước XHCN Đông Âu trước đây. Đánh giá về vấn đề này,
PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa cho rằng: “Sỏng tạo ra khái niệm “quyền sử dụng
đất” cả người Việt Nam và người Trung Quốc dường như đã tạo ra một khái niệm sở hữu kép, một khái niệm sở hữu đa tầng: đất đai thuộc sở hữu toàn dân, song quyền sử dụng lại thuộc về cá nhân hay tổ chức”. Cùng chung quan điểm
này, GS.TSKH. Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ
trưởng Bộ
Tài nguyên và Môi
trường nhận xét: “Chế độ sở hữu toàn dân về đất đai của nước ta chỉ mang tính
thuật ngữ… Quyền lợi và nghĩa vụ
của người sử
dụng đất ở
nước ta khụng
khỏc so với quyền lợi và nghĩa vụ của chủ sở hữu đất đai ở các nước”; [14, tr2]
Như vậy, bằng việc pháp luật ghi nhận và bảo hộ quyền của người sử dụng đất thì dường như người sử dụng đất ở nước ta là người “sở hữu” một
loại quyền về tài sản đó là “quyền sử dụng đất”. Bởi lẽ, người sử dụng đất được pháp luật trao cho các quyền năng liên quan đến quyền sử dụng đất: quyền chuyển nhượng, quyền chuyển đổi, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thừa kế
quyền sử dụng đất; quyền thế
chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử
dụng
đất. Một khi pháp luật đã thừa nhận quyền sử dụng đất là một loại quyền về tài sản của người sử dụng đất, thì khi Nhà nước thu hồi đất nói chung (có nghĩa là người sử dụng đất bị mất quyền sử dụng đất do hành vi thu hồi đất của Nhà nước gây ra) và thu hồi đất ở nói riêng, Nhà nước phải bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người sử dụng đất;
1.3. Khái quát lịch sử hình thành các quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1993
Trước năm 1987, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, ở nước ta pháp luật đất đai chưa phát triển. Trong thời kỳ này chỉ có một số văn bản quy
phạm pháp luật về
đất đai mà tiêu biểu là Nghị
định số
151/TTg ngày
14/01/1959 của Hội đồng Chính phủ quy định Thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất, tại Chương II đã đề cập việc “Bồi thường cho người có ruộng đất bị trưng dụng”. Tiếp đến Thông tư số 1792/TTg ngày 11/01/1970 của Thủ tướng Chính phủ về quy định một số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đất đai, cây cối lõu niờn, cỏc hoa màu cho nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế mở rộng thành phố đề cập vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất; Quyết định số 201/CP ngày 1/7/1980 của Hội đồng Chớnh phủ về tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước. Các quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mặc dù được ban hành song chưa đầy đủ, thống nhất;
Ngày 29/12/1987, Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ hai đã thông qua Luật đất đai; trong đó quy định: “Khi đất đang sử dụng bị thu hồi vì nhu cầu của Nhà nước hoặc của xã hội thì được đền bù thiệt hại thực tế và được giao đất khỏc” (Khoản 5 Điều 49). Tuy nhiên quy định này mới dừng lại ở mức độ khái quát chưa nêu cụ thể các trường hợp được bồi thường hay không được bồi thường; mức độ bồi thường như thế nào v.v. Cụ thể hóa quy định này của Luật đất đai năm 1987, Quyết định số 186/HĐBT ngày 31/05/1990 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quy định về vấn đề bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất trong trường hợp chuyển mục đích từ đất nông nghiệp, lâm nghiệp sang sử dụng vào mục đích khác. Theo đó, người được Nhà nước cho phép chuyển mục đích sử dụng đất phải nộp một khoản tiền vào ngân sách nhà nước. Nhà
nước dùng khoản tiền này để khai hoang mở rộng diện tích đất nông nghiệp bù đắp vào số diện tích phải chuyển mục đích sử dụng đất.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1993 đến nay
Luật đất đai năm 1993 được Quốc hội khóa X thông qua ngày 14/07/1993 đã quy định rõ hơn về vấn đề bồi thường; cụ thể: “Người sử dụng đất có quyền được bồi thường thiệt hại về đất đai bị thu hồi” (Khoản 6 Điều 73); và “Trong trường hợp cần thiết Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng đất
để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng thì người bị thu hồi đất được đền bù thiệt hại” (Điều 27); “Trước khi thu hồi phải thông báo cho người đang sử dụng đất biết về lý do thu hồi, thời gian, kế hoạch di chuyển, phương án đền bù thiệt hại” (Điều 28). Tuy nhiên vẫn còn thiếu các quy định về việc giải quyết vấn đề tái định cư, vấn đề đào tạo chuyển đổi ngành, nghề, tìm kiếm việc làm mới cho người có đất bị thu hồi. Cụ thể hóa các quy định này, ngày 17/08/1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/CP quy
định về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục
đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng. Thực tiễn triển khai thực hiện Nghị định này cho thấy còn tồn tại nhiều bất cập mà hạn chế lớn nhất là quy định về giá đất bồi thường quá thấp nên người bị thu hồi đất không đồng thuận với phương án bồi thường, phát sinh tranh chấp, khiếu kiện kéo dài. Để khắc phục những tồn tại này, ngày 24/04/1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 22/1998/NĐ CP thay thế Nghị định số 90/CP. Tiếp đó, Bộ Tài chính ra Thông tư số 145/1998/TTBTC ngày 04/11/1998 hướng dẫn thi hành Nghị định số 22/1998/NĐCP. Các văn bản này đó cú những sửa đổi, bổ sung chủ yếu sau đây:
Quy định rõ tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất, cho thuê đất có trách nhiệm đền bù thiệt hại ( Điều 2 Nghị định số 22/1998/NĐCP);
Giá đất để tính đền bù thiệt hại được xác định trên cơ sở giá đất
do UBND cấp tỉnh ban hành theo khung giá của Chính phủ
nhân với hệ
số K
nhằm đảm bảo giá đền bù phù hợp với khả năng sinh lợi và không quá thấp so với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường (Điều 8 Nghị Định số 22/1998/NĐCP);
Ngoài việc được đền bù, người bị thu hồi đất còn được trợ cấp nhằm ổn định đời sống trong trường hợp phải di chuyển chỗ ở, di chuyển địa điểm sản xuất kinh doanh; trả chi phí chuyển đổi nghề nghiệp, được chuyển
đến khu tái định cư 22/1998/NĐCP);
nếu họ
có nhu cầu… (Điều 25, Điều 28 Nghị
định số
Tuy nhiên, trên thực tế do việc xác định hệ số K quá phức tạp nên nhiều địa phương xác định giá bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất vẫn thấp hơn
nhiều giá đất chuyển nhượng trên thị trường. Điều này đã gây ra nhiều tranh
chấp, khiếu kiện về đất đai phức tạp, kéo dài. Để khắc phục những hạn chế này và sửa đổi một số quy định của pháp luật đất đai cho phù hợp với yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngày 26/11/2003, Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật đất đai 2003 thay thế Luật đất đai năm 1993; trong đó cú cỏc quy định sửa đổi, bổ sung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Cụ thể hóa các quy định này, ngày 03/12/2004,
Chính phủ ban hành Nghị
định số
197/2004/NĐCP về
bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Bộ Tài chính ra Thông tư số 116/2004/TT
BTC ngày 07/12/2004 hướng thực hiện Nghị
định số
197/2004/NĐCP về
bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Các quy định về vấn đề này đã có những sửa đổi, bổ sung đáng chú ý sau đây:
Quy định rừ cỏc trường hợp người bị Nhà nước thu hồi đất được bồi thường về đất và bồi thường thiệt hại về tài sản trên đất và các trường hợp
người bị
thu hồi đõt không được bồi thường về
đất mà chỉ
được bồi thường
thiệt hại về tài sản trên đất;
Quy định nguyên tắc công khai, minh bạch trong việc thu hồi đất; theo đó: “Trước khi thu hồi đất, chậm nhất là 90 ngày đối với đất nông nghiệp, 180 ngày đối với đất phi nông nghiệp, cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất phải
thông báo cho người sử
dụng đất biết lý do thu hồi, thời gian, kế
hoạch di
chuyển, phương án tổng thể về bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư”;
Quy định chính sách tái định cư, theo đó, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập và thực hiện các dự án tái định cư trước khi thu hồi
đất để
bồi thường bằng nhà
ở, đất ở
cho người bị
thu hồi đất ở
mà phải di
chuyển chỗ ở. Khu tái định cư được quy hoạch chung cho nhiều dự án trên cùng một địa bàn và phải có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ;
Quy định chính sách hỗ trợ, đào tạo chuyển đổi ngành nghề, bố trí
việc làm mới cho người bị
thu hồi đất nông nghiệp mà không có đất để
bồi
thường cho việc tiếp tục sản xuất …;
Tiếp đó, để xử lý những vấn để mới nảy sinh trong quá trình thu hồi đất, GPMB, ngày 25/05/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 84/2007NĐCP quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà