Thẩm Quyền Đăng Ký Việc Nuôi Con Nuôi Trong Nước

con nuôi có yếu tố nước ngoài không có sự phân biệt. Đối với điều kiện của người được nhận làm con nuôi hoàn toàn không có sự phân biệt. Điều kiện của người nhận nuôi con nuôi là người trong nước hay người nước ngoài đều phải đáp ứng Điều 14 Luật Nuôi con nuôi. Không có sự phân biệt về điều kiện của người nhận nuôi là người nước ngoài, ngoài việc người nhận nuôi là người nước ngoài phải có đủ các điều kiện theo quy định pháp luật của nước nơi người đó thường trú (Khoản 1 Điều 29 Luật Nuôi con nuôi) và đối với người Việt Nam nhận con nuôi là người nước ngoài phải thực hiện theo Điều 40 Luật Nuôi con nuôi. Đây cũng là một trong những quy định mới, bởi thực tế rất ít trường hợp công dân Việt Nam nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi (nếu có thì chủ yếu là các trường hợp nhận trẻ em có quan hệ họ hàng làm con nuôi). Các quy định pháp luật về nuôi con nuôi trước đây chưa điều chỉnh cụ thể vấn đề này nên xảy ra tình trạng người Việt Nam nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi cần hoàn thiện giấy tờ theo pháp luật của nước ngoài, nhưng không biết cơ quan nào có thẩm quyền cấp giấy tờ đó. Để khắc phục, Luật Nuôi con nuôi đã quy định rõ hơn vấn đề này.

2.2.4 Đăng ký nuôi con nuôi tại cơ quan có thẩm quyền

So với các quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành thì hồ sơ đăng ký nuôi con nuôi trong Luật Nuôi con nuôi và Nghị định số 19/2011/NĐ-CP được quy định đầy đủ và chặt chẽ hơn, bảo đảm về tình trạng nhân thân, về điều kiện của người nhận và người được nhận theo hướng lựa chọn cha mẹ nuôi có phẩm chất đạo đức tốt, có khả năng giáo dục con cái, có điều kiện vật chất và sức khỏe để nhận con nuôi, nhưng vẫn bảo đảm đơn giản hóa để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân.

Thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi được quy định tại Luật Nuôi con nuôi và cụ thể hóa tại Nghị định số 19/2011/NĐ-CP. Về cơ bản, các quy định về thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi vẫn kế thừa các quy định pháp luật về nuôi con nuôi trước đây, cụ thể như sau:

2.2.4.1 Thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước

Khoản 1 Điều 9 của Luật Nuôi con nuôi quy định UBND cấp xã nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi hoặc của người nhận nuôi đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước. Như vậy, theo quy định này thì người nhận con nuôi có thể nộp hồ sơ xin nhận con nuôi tại UBND cấp xã của một trong hai nơi.

Đối với trường hợp trẻ em bị bỏ rơi chưa được chuyển vào cơ sở nuôi dưỡng và chưa đăng ký hộ khẩu thường trú, thì theo quy định tại khoản 1 Điều 2 của Nghị định số 19/2011/NĐ-CP, UBND cấp xã nơi lập biên bản xác lập nhận trẻ em bị bỏ rơi có thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi. Đối với trường hợp trẻ em đang sống tại cơ sở nuôi dưỡng thì UBND cấp xã nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng có thẩm quyền đăng ký việc nuôi con nuôi.

Để tạo thuận lợi cho việc đăng ký nuôi con nuôi, riêng đối với trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ/chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác, ruột nhận cháu làm con nuôi hoặc có sự thỏa thuận của người nhận con nuôi với cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người được nhận làm con nuôi, thì việc nuôi con nuôi được đăng ký tại UBND cấp xã nơi thường trú của người nhận con nuôi.

Những quy định của Luật Nuôi con nuôi và Nghị định số 19/2011/NĐ- CP so với các quy định tại Luật HN&GĐ và Nghị định số 158/2005/NĐ-CP được quy định đầy đủ và chặt chẽ hơn về tình trạng nhân thân và điều kiện của người nhận con nuôi. Thực tế giải quyết việc nuôi con nuôi ở trong nước tại Thừa Thiên Huế nhiều năm qua cho thấy, vấn đề tồn tại là thiếu việc đánh giá các điều kiện để nuôi con nuôi đối với người nhận con nuôi. Hầu hết người nhận nuôi đã có sự lựa chọn con nuôi trước và đã có một khoảng thời gian nuôi trẻ rồi sau đó mới đi đăng ký việc nuôi con nuôi, do đó, UBND cấp xã thực hiện đăng ký nuôi con nuôi luôn chứ không cần xác minh người nhận

con nuôi có đủ điều kiện về sức khỏe, chỗ ở, kinh tế, đạo đức tốt bảo đảm việc nuôi con nuôi.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.

Về thời hạn giải quyết việc nuôi con nuôi là 30 ngày, kể từ ngày UBND cấp xã nhận đủ hồ sơ hợp lệ, so với Nghị định số 158/2005/NĐ-CP trước đây quy định thời hạn giải quyết là 05 ngày, nếu cần xác minh thì thời hạn kéo dài thêm không quá 05 ngày. Do trước đây việc giải quyết nuôi con nuôi trong nước chỉ đơn giản là công nhận việc nuôi con nuôi, Cán bộ tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký việc nuôi con nuôi và Quyết định công nhận việc nuôi con nuôi (Khoản 3 Điều 27 Nghị định số 158/2005/NĐ-CP). Nay Luật Nuôi con nuôi quy định UBND cấp xã phải có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, lấy ý kiến của cha mẹ trẻ em, người giám hộ và bản thân trẻ em (đối với trẻ em từ 9 tuổi trở lên). Đây là thủ tục bắt buộc, sau đó mới tiến hành đăng ký việc nuôi con nuôi và tổ chức giao nhận con nuôi. Như trước đây thời hạn giải quyết việc nuôi con nuôi là 05 ngày thì không đủ thời gian để tiến hành các công việc cần thiết, đảm bảo sự chặt chẽ, chính xác, đúng mục đích trong việc đăng ký nuôi con nuôi. Luật Nuôi con nuôi giao cho công chức tư pháp hộ tịch trách nhiệm phải nghiên cứu, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng và hoàn cảnh của những người liên quan. Trường hợp người được nhận làm con nuôi có cha mẹ đẻ thì công chức tư pháp – hộ tịch kiểm tra việc cha mẹ đẻ có thỏa thuận với cha mẹ nuôi để giữ lại quyền, nghĩa vụ đối với con và cách thức thực hiện quyền, nghĩa vụ đó sau khi đã cho làm con nuôi. Tuy nhiên theo ý kiến của một số cán bộ tư pháp- hộ tịch tại Thừa Thiên Huế, để thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả nhiệm vụ này đối với họ rất khó khăn bởi nhiệm vụ được giao cho cán bộ tư pháp- hộ tịch quá nhiều, trước đây ý chí của các bên cha mẹ đã được thể hiện trong Giấy thỏa thuận, việc kiểm tra, xác minh chủ yếu tập trung vào việc xác minh nguồn gốc của trẻ, nay đòi hỏi cán bộ tư pháp-hộ tịch phải thực hiện lấy ý kiến của những người liên quan, tư vấn cho họ về mục

đích, các quyền, nghĩa vụ phát sinh sáu khi thực hiện việc đăng ký nuôi con nuôi… trong khi đó cán bộ tư pháp-hộ tịch cấp xã không được đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng này. Đồng thời việc lấy ý kiến của các bên cũng gặp khó khăn nhất là đối với những đứa trẻ là con ngoài giá thú hoặc cha mẹ đã ly hôn, do người kia không tích cực hợp tác trong quá trình bố trí thời gian để cán bộ tư pháp-hộ tịch lấy ý kiến.

Thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi qua thực tiễn tại Thừa Thiên Huế - 9

Luật Nuôi con nuôi cũng quy định cụ thể, chi tiết hơn về việc cho nhận con nuôi, giúp cho các bên xác định rõ các quyền và nghĩa vụ của mình. Pháp luật cũng quy định việc sau khi đăng ký việc nuôi con nuôi, cha, mẹ nuôi có nghĩa vụ 6 tháng 1 lần thông báo tình hình phát triển của trẻ cho UBND cấp xã nơi họ thường trú về tình trạng sức khỏe, thể chất, tinh thần, sự hòa nhập của con nuôi với cha mẹ nuôi, gia đình, cộng đồng. Tuy nhiên thực tế tại tỉnh Thừa Thiên Huế từ trước đến nay quy định này hầu như không được cha mẹ nuôi trong nước thực hiện do nhận thức và phong tục tập quán của người Việt Nam là muốn che dấu thông tin về việc nuôi con nuôi, không muốn mọi người và con nuôi biết việc nuôi con nuôi. Vì vậy dẫn đến thực trạng là các cơ quan có thẩm quyền không thể phối hợp quản lý và đánh giá việc thực hiện nuôi con nuôi có đảm bảo đúng mục đích, để có biện pháp can thiệp kịp thời khi có sự vi phạm về nuôi con nuôi hoặc cha mẹ nuôi có hành vi hành hạ, xâm hại đến con nuôi.

2.2.4.2 Đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài

Theo Điều 31 Luật Nuôi con nuôi thì hồ sơ xin nhận con nuôi của người nước ngoài thường trú ở nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi về cơ bản cũng giống như hồ sơ xin nhận nuôi con nuôi trong nước và không thay đổi nhiều so với quy định pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trước đây. Ngoài ra còn quy định thêm hai loại giấy tờ cần phải có đối với

hồ sơ của trẻ em được giới thiệu làm con nuôi là: văn bản về đặc điểm, sở thích, thói quen đáng lưu ý của trẻ em và tài liệu chứng minh đã thực hiện việc tìm gia đình thay thế trong nước cho trẻ em nhưng không thành. Đây là quy định hoàn toàn mới so với Nghị định số 68/2002/NĐ-CP và Nghị định số 69/2006/NĐ-CP trước đây, do chưa có cơ chế bảo đảm quyền ưu tiên nuôi con nuôi trong nước, chưa quan tâm đến việc thu xếp mái ấm cho trẻ ở trong nước, tạo kẽ hở để cho trẻ làm con nuôi nước ngoài mà một số tỉnh đã lợi dụng việc này để cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài để trục lợi.

Việc cho, nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài là vấn đề cực kỳ hệ trọng, nó liên quan đến số phận một con người sẽ phải sống xa quê hương, đất tổ của mình. Một quyết định không được cân nhắc kỹ lưỡng, thiếu chính xác, một nhận thức không đúng về vấn đề nuôi con nuôi sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích cơ bản của trẻ.

Luật Nuôi con nuôi và Nghị định số 19/2011/NĐ-CP khẳng định trách nhiệm của cơ quan nhà nước mà cụ thể là Sở Tư pháp trong việc kiểm tra, thẩm định hồ sơ của trẻ em và xác nhận việc trẻ em có đủ điều kiện để cho làm con nuôi nước ngoài. Đối với những trường hợp trẻ em bị bỏ rơi thì phải có cơ quan công an cấp tỉnh xác minh, trước khi được Sở Tư pháp xác nhận có đủ điều kiện cho làm con nuôi nước ngoài. Việc xác nhận trẻ em đủ điều kiện cho làm con nuôi nước ngoài do Sở tư pháp thực hiện đối với từng trường hợp, bảo đảm trẻ em đáp ứng đủ các yêu cầu về độ tuổi, đối tượng theo quy định của pháp luật.

Về cơ bản, điều kiện của người nước ngoài xin nhận con nuôi vẫn kế thừa các quy định hiện hành. Về nguyên tắc, người xin nhận con nuôi phải thường trú ở những nước là thành viên của điều ước quốc tế hợp tác về nuôi con nuôi với Việt Nam và đáp ứng đủ các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi, cũng như pháp luật của nước ngoài hữu quan.

Chúng ta có thể thấy thủ tục giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi nước ngoài đã có sự thay đổi cơ bản, đặc biệt là về trình tự giới thiệu trẻ em làm con nuôi nước ngoài. Tuy nhiên, để thực hiện đúng trình tự thì bên nhận nuôi phải đi lại nhiều lần, nhất là đối với những trường hợp cha dượng, mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi. Ví dụ: trường hợp ông P, người Anh nhận cháu Tiến là con riêng của vợ làm con nuôi, ông đã phải từ Anh về Việt Nam ít nhất 04 lần mới hoàn tất: lần thứ nhất để nộp hồ sơ, lần thứ 2 để lập và nộp hồ sơ của trẻ, lần 3 để được lấy ý kiến và lần thứ 4 để tổ chức giao nhận con nuôi. Ông P đã rất bức xúc bởi thực tế ông đã kết hôn với mẹ cháu Tiến từ lâu và đã nuôi dưỡng cháu Tiến từ khi còn rất nhỏ, hiện cả gia đình đang sống ở Anh, mỗi khi đi lại cả gia đình đều phải đi. Ông P cho rằng nếu như trước đây thì ông chỉ phải về Việt Nam khoảng 2 lần khi nộp hồ sơ và khi nhận con, bởi không có thủ tục lấy ý kiến trực tiếp, vì ý chí của các bên đã được thể hiện trên giấy tờ đầy đủ khi nộp hồ sơ nhận con.

Luật Nuôi con nuôi đã đặt ra quy định về điều kiện đối với người nhận con nuôi trong những trường hợp theo Khoản 3 Điều 14 thì cũng nên có những quy định giản lược trong quy trình giải quyết đối với các trường hợp này, để tránh cho các bên việc đi lại nhiều lần, mất thời gian và tốn kém về tiền bạc khi phải đi lại giữa hai quốc gia. Nhằm thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà nước nhưng vẫn đảm bảo tối đa quyền lợi của các bên trong việc nuôi con nuôi.

2.3 Các biện pháp tìm gia đình thay thế cho trẻ em

Điều 15 Luật Nuôi con nuôi đã quy định về trách nhiệm tìm gia đình thay thế cho trẻ em. Luật HN&GĐ năm 2000 và các văn bản hướng dẫn liên quan đến việc nuôi con nuôi trước đây chưa quy định cụ thể về trách nhiệm, biện pháp tìm gia đình thay thế cho trẻ. Việc tìm gia đình thay thế cho trẻ em nhằm bảo đảm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt có cơ hội được người trong nước nhận làm con

nuôi, được nuôi dưỡng và lớn lên ngay trên đất nước mình. Từ đó, bảo đảm trẻ em có điều kiện hòa nhập tốt vào đời sống cộng đồng dân tộc và trở thành công dân tốt cho xã hội. Đây cũng là mục tiêu chung trong công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em của Đảng và Nhà nước ta. Trách nhiệm tìm gia đình thay thế cho trẻ em không những thuộc về cha, mẹ, ông, bà, anh, chị ruột, hoặc người có quan hệ họ hàng, thân thích với trẻ khi họ không có khả năng nuôi dưỡng và chăm sóc, mà còn là trách nhiệm các cơ quan có thẩm quyền.

Việc tìm gia đình thay thế cho trẻ em đã được nhiều nước coi như một nguyên tắc bổ trợ và đưa vào hệ thống pháp luật quốc gia. Đây là biện pháp nhằm tạo mọi cơ hội cho trẻ em được sống trong gia đình gốc của mình hoặc trong môi trường gia đình tại chính đất nước của mình.

2.3.1 Nguyên tắc tìm gia đình thay thế cho trẻ em

Tìm gia đình thay thế cho trẻ em là một yêu cầu bắt buộc trong hoạt động nuôi con nuôi quốc tế, vấn đề được đưa ra bàn bạc từ những năm 60 của thế kỷ trước. Tại Hội nghị Leysin, các nước tham dự cho rằng “trước khi đưa một trẻ em ra khỏi môi trường của nước mình cần nghiêm túc xem xét những khả năng hiện có tại chính đất nước của trẻ em”. Các nước Châu Âu đưa ra nguyên tắc này vào những năm 60 nhằm tăng cường số lượng trẻ em được nhận làm con nuôi trong nước [9]. Nguyên tắc này được hiểu như là các biện pháp được tiến hành trong nước nhằm giúp cho trẻ em được nuôi dưỡng trong môi trường thích hợp nhất tại nước gốc của mình như đỡ đầu, nhận chăm sóc trẻ, giao trẻ vào gia đình hoặc cơ sở nuôi dưỡng hoặc nuôi dưỡng tạm thời. Công ước Lahay 1993 đưa ra nguyên tắc bổ trợ một cách “mềm dẻo” hơn với yêu cầu nước gốc phải tiến hành mọi biện pháp thay thế trước khi cho trẻ em làm con nuôi quốc tế, và công nhận rằng con nuôi quốc tế tạo ra cho trẻ em một môi trường gia đình bền vững và lâu dài cho trẻ em khi không tìm được gia đình thích hợp ở trong nước gốc của trẻ. Cho đến nay các nước thành viên của Công ước

Lahay 1993 đều tuân thủ nguyên tắc bổ trợ trong hoạt động nuôi con nuôi quốc tế. Pháp luật của một số nước gốc là thành viên của Công ước Lahay 1993 đều đưa ra thời hạn phải tuân thủ khi tiến hành biện pháp tìm gia đình thay thế trong nước như: Belarut chỉ giải quyết cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài sau 6 tháng kể từ khi trẻ em có quyết định tiếp nhận vào cơ sở nuôi dưỡng; ở Nga Bộ luật gia đình quy định Chính phủ tập trung danh sách trẻ em cần tìm gia đình thay thế, danh sách đó được đăng 2 tháng ở cấp địa phương và vùng, ở cấp Trung ương danh sách trẻ em đó được lưu giữ trong nhiều tháng; ở Ấn Độ thời gian tìm gia đình cha mẹ nuôi trong nước là 2 tháng trước khi giải quyết cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài [9].

Nguyên tắc tìm gia đình thay thế cho trẻ em từng được quy định trong Thông tư số 08/2006/TT-BTP và tiếp tục được quy định rõ hơn tại Điều 15 Luật Nuôi con nuôi. Mục đích cơ bản của nguyên tắc này là tạo cơ hội tối đa để đem lại cho trẻ em mái ấm gia đình trong nước. Trường hợp trẻ em không được nuôi dưỡng trong môi trường gia đình gốc thì cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm tìm gia đình thay thế cho trẻ em đó. Thủ tục này là một bước tiến quan trọng trong quy định pháp luật về nuôi con nuôi ở Việt Nam. Trong bối cảnh Việt Nam tham gia Công ước LaHay về nuôi con nuôi thì thủ tục này là một thủ tục bắt buộc trước khi tiến hành các thủ tục giải quyết cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài. Một thời gian dài Việt Nam chưa thực sự quan tâm đến nguyên tắc ưu tiên nuôi con nuôi trong nước.

Cho dù trước đây chúng ta chưa thực sự quan tâm đến nguyên tắc ưu tiên tìm gia đình thay thế ở trong nước trước khi cho trẻ làm con nuôi nước ngoài nhưng vì đặc thù văn hóa, phong tục Việt Nam nên việc cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài thường ít hơn so với trẻ em được cho làm con nuôi trong nước. Theo tổng hợp báo cáo số liệu tại Hội nghị sơ kết 5 năm thực hiện Nghị định số 68/2002/NĐ-CP, thống kê từ năm 2003 đến năm 2007

Xem tất cả 144 trang.

Ngày đăng: 09/03/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí