Ý Chí Của Các Chủ Thể Có Liên Quan Trong Việc Cho Nhận Con Nuôi

2.2.2 Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi

Xuất phát từ bản chất của việc cho – nhận con nuôi là xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và trẻ em được nhận làm con nuôi nên việc nuôi con nuôi phải đáp ứng được các điều kiện nhất định do pháp luật quy định. Các điều kiện đó vừa phải đảm bảo việc cho – nhận con nuôi là vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, đồng thời đảm bảo tạo ra môi trường gia đình tốt nhất cho việc nuôi dưỡng, giáo dục trẻ em được nhận làm con nuôi. Về cơ bản, điều kiện của người nhận nuôi con nuôi trong Luật Nuôi con nuôi đã kế thừa quy định của Luật HN&GĐ năm 2000. Cụ thể, để được nhận con nuôi, về nguyên tắc người nhận con nuôi phải bảo đảm có đủ các điều kiện về năng lực hành vi dân sự, độ tuổi, tư cách đạo đức, sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi theo quy định tại Điều 14 Luật Nuôi con nuôi.

Quy định về khoảng cách độ tuổi của người nhận nuôi phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên là căn cứ vào bản chất của việc nuôi con nuôi là hình thành quan hệ cha mẹ và con hợp pháp giữa hai bên, do đó tuổi của người nuôi phải tương xứng, phù hợp với tuổi có thể làm cha mẹ về mặt sinh học. Đồng thời, người nhận nuôi phải đạt tới một độ tuổi nhất định thì mới có được kinh nghiệm, hiểu biết, điều kiện kinh tế phù hợp và quan trọng nhất là nhận thức rõ về nhu cầu nhận nuôi con nuôi của mình. Tuy nhiên, Luật Nuôi con nuôi chỉ quy định khoảng cách tuổi giữa người nhận và người được nhận chứ không quy định độ tuổi tối đa của người nhận con nuôi. Quy định giới hạn tuổi tối đa của cha mẹ nuôi có ý nghĩa là nhằm đem lại một gia đình tương đối phù hợp với gia đình tự nhiên cho trẻ, sẽ không hợp với tự nhiên chút nào nếu trẻ sơ sinh được nhận nuôi bởi các cặp vợ chồng trên 70 - 80 tuổi. Vì khi tuổi đã quá cao thì khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con nuôi sẽ giảm dần theo tuổi tác và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của trẻ được nhận nuôi. Để

phù hợp với bản chất của việc nuôi con nuôi, pháp luật nên quy định tuổi tối đa của người nhận nuôi con nuôi, chẳng hạn người nhận nuôi con nuôi là người không quá 60 tuổi [22].

Do đó, trong quá trình giải quyết đối với các trường hợp cụ thể, yêu cầu đặt ra đối với cơ quan có thẩm quyền là cần phải nghiên cứu kỹ về hoàn cảnh gia đình, điều kiện thực tế cũng như động cơ, mục đính nhận con nuôi, để có những quyết định hợp lý, tránh hiện tượng lợi dụng việc pháp luật không quy định mà một số người tuổi tác quá cao, muốn nhận con nuôi để tìm người giúp việc trong gia đình hoặc lạm dụng, bóc lột sức lao động của người được nhận làm con nuôi.

Về điều kiện sức khỏe, kinh tế, tư cách đạo đức của người nhận nuôi con nuôi, về nguyên tắc đây là những điều kiện hết sức quan trọng và là yếu tố cần thiết để có thể chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi, đồng thời tạo ra môi trường an toàn cho trẻ phát triển tốt. Tuy nhiên chưa có một văn bản nào quy định cụ thể về tiêu chí của những điều kiện này, mà chỉ được hiểu rất chung chung, khó xác định, có thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau khi áp dụng pháp luật. Hiện tại, ở Việt Nam chưa phát triển mạng lưới các cơ quan xã hội để tiến hành việc đánh giá về điều kiện tâm lý và hoàn cảnh gia đình của người nhận con nuôi. Việc này được giao cho Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi người nhận con nuôi thường trú có trách nhiệm tìm hiểu và xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế của người nhận con nuôi. Theo ý kiến của một số cán bộ tư pháp-hộ tịch cấp xã tại Thừa Thiên Huế thì nhiệm vụ này được giao cho họ quả là rất khó khăn và không tránh khỏi thực tế là việc đánh giá phần nhiều mang tính chủ quan, bởi đặc điểm của người Việt Nam nói chung và nhất là người Thừa Thiên Huế thường sống chung trong một nhà với 2 – 3 thế hệ và nguồn tài chính, thu nhập không được công khai thì việc xác định tình trạng chỗ ở và điều kiện kinh tế của một người rất

khó và phụ thuộc nhiều vào ý chí chủ quan của cá nhân người nhận định. Ví dụ như trường hợp cán bộ tư pháp – hộ tịch xác minh được người nhận nuôi con nuôi không có việc làm ổn định, không có thu nhập, sống cùng với gia đình, kinh tế phụ thuộc bố mẹ nhưng cuộc sống hàng ngày vẫn ổn định do được gia đình chu cấp về kinh tế, vậy cán bộ tư pháp – hộ tịch sẽ tham mưu đồng ý hay từ chối việc đăng ký nuôi con nuôi là hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cá nhân.

Bên cạnh những quy định về điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi, Khoản 2 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi còn quy định về những trường hợp không được nhận con bao gồm: người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên; đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; đang chấp hành hình phạt tù; chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. So với các quy định về điều kiện của người nhận con nuôi tại Luật HN&GĐ năm 2000 thì quy định này cụ thể và đẩy đủ hơn, nhằm tránh khả năng trẻ em bị lạm dụng, bóc lột sức lao động, đảm bảo mục đích nuôi con nuôi là xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình. Bởi những người có hành vi trên thì không còn đủ tư cách, đạo đức để nuôi dạy con, không thể là tấm gương cho người con noi theo, không có gì bảo đảm được rằng người được nhận làm con nuôi sẽ được sống trong một môi trường làng mạnh, được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục tốt về thể chất lẫn nhân cách.

Những quy định về điều kiện của người nhận con nuôi trong Luật

Nuôi con nuôi và Nghị định 19/2011/NĐ-CP so với các quy định tại các văn bản về nuôi con nuôi trước đây, là đầy đủ và chặt chẽ hơn, tăng cường mức độ đảm bảo về tình trạng nhân thân của người nhận con nuôi theo hướng lựa chọn những cha mẹ có đạo đức tốt, đủ điều kiện và khả năng trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi, để trẻ có thể phát triển tốt trong mái ấm gia đình mới.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.

Thực tế trong nhiều năm qua việc giải quyết nuôi con nuôi trên toàn quốc nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng cho thấy một vấn đề tồn tại là thiếu quy định đánh giá các điều kiện nuôi con nuôi đối với người nhận nuôi con nuôi trong nước. Với mục tiêu cao nhất là tìm một mái ấm gia đình thay thế cho trẻ, vì quyền lợi của trẻ nên việc đánh giá về điều kiện, nhân thân của người nhận nuôi là hết sức quan trọng và cần thiết. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác xã hội, song mạng lưới nhân viên xã hội của toàn quốc nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng còn thiếu và yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, trước mắt để đánh giá các điều kiện của người nhận nuôi được giao cho UBND cấp xã, mà cán bộ tư pháp- hộ tịch mà người chịu trách nhiệm chính giúp UBND cấp xã thực hiện nhiệm vụ này. Theo anh Ngữ, công chức tư pháp xã Vinh An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế thì nhiệm vụ này được giao là khá mới mẻ, pháp luật quy định người chưa được xóa án tích về một trong các tội như xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm người khác, ngược đãi ông bà, cha mẹ; ép buộc dụ dỗ trẻ vị thành niên phạm tội và mua bán đánh tráo trẻ em thì không được nhận nuôi con nuôi. Vậy có nghĩa là người đã được xóa án tích về những tội trên thì được nhận nuôi con nuôi. Tuy nhiên anh rất phân vân về bản chất của những người này, bởi chắc gì sau khi được xóa án tích thì họ đã thay đổi.

2.2.3 Ý chí của các chủ thể có liên quan trong việc cho nhận con nuôi

Thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi qua thực tiễn tại Thừa Thiên Huế - 8

Pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới đều quy định hiệu lực của

việc nhận con nuôi phụ thuộc vào sự đồng ý của các bên có liên quan. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ ra quyết định hoặc chứng nhận việc nuôi con nuôi khi đã có sự đồng ý của những người có liên quan. Sự thể hiện ý chí của các chủ thể có liên quan trong việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi có ý nghĩa quan trọng trong việc cho – nhận con nuôi, do quan hệ nuôi con nuôi được xác lập trên cơ sở nuôi dưỡng và có tính chất tự nguyện. Chính vì thế, khi các chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi cảm thấy cần thiết xác lập quan hệ này trên cơ sở mong muốn và là nguyện vọng thực sự của các bên

Thứ nhất, sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi

Đây là một trong hai chủ thể quan trọng nhất của quan hệ nuôi con nuôi: người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Người nhận nuôi con nuôi phải thể hiện ý chí của mình - thông qua đơn xin nhận con nuôi

- về việc mong muốn nhận nuôi con nuôi và thiết lập quan hệ cha mẹ và con với đứa trẻ đó một cách lâu dài và bền vững. Người nhận nuôi con nuôi có thể nhận nuôi con nuôi vì nhiều lí do khác nhau nhưng trước hết là từ nhu cầu của người nuôi muốn nuôi dưỡng một đứa trẻ nhằm thiết lập quan hệ cha mẹ và con giữa hai bên. Việc có nhận nuôi con nuôi hay không là do chính bản thân người nhận nuôi con nuôi quyết định trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, chủ động và hiểu biết đầy đủ về hậu quả pháp lí của nó. Nếu việc nhận nuôi con nuôi xuất phát từ những động cơ, mục đích trái pháp luật, trái đạo đức sẽ không có giá trị pháp lí.

Thứ hai, sự thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người được cho làm con nuôi

Điều 21 Luật Nuôi con nuôi quy định, việc nhận trẻ em làm con nuôi phải được sự đồng ý của cha, mẹ đẻ của trẻ em. Quy định này kế thừa Khoản 1 Điều 71 Luật HN&GĐ năm 2000 và quy định rõ hơn trong trường hợp cha hoặc mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc

không xác định được thì cần có sự đồng ý của người mẹ, người cha còn lại. Nếu cả cha, mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được cha mẹ thì phải được sự đồng ý của người giám hộ và người nuôi dưỡng trẻ em.

Người đồng ý cho trẻ em làm con nuôi phải được tư vấn đầy đủ về mục đích nuôi con nuôi, quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, quyền, nghĩa vụ giữa cha, mẹ đẻ và con sau khi đã được cho làm con nuôi, việc cha, mẹ đẻ sẽ không còn các quyền nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con sau khi đã cho làm con nuôi. Cha, mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con nuôi sau khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày. Việc lấy ý kiến phải lập thành văn bản và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người được lấy ý kiến

Hiện nay các quốc gia mà Việt Nam có quan hệ hợp tác song phương về lĩnh vực con nuôi như: Ý, Pháp, Thụy Điển…đều có đội ngũ cán bộ tâm lý xã hội giàu kinh nghiệm hỗ trợ cho các gia đình trong quá trình cho, nhận con nuôi. Ở nước ta, đội ngũ này chưa phát triển nên việc tư vấn tâm lý cho các gia đình trong lĩnh vực nuôi con nuôi hầu như còn bỏ ngỏ, việc tư vấn được giao cho cán bộ tư pháp- hộ tịch. Thực tế cho thấy khi quan hệ nuôi con nuôi được hình thành sẽ kéo theo những hệ quả đi kèm, ảnh hưởng đến suốt cuộc đời của một đứa trẻ cũng như cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi, nên để đảm bảo các quan hệ nuôi con nuôi mang lại lợi ích tốt nhất cho các bên thì các bên cần phải được tư vấn đầy đủ cả về pháp lý lẫn tâm lý tình cảm.

Luật Nuôi con nuôi và các văn bản hướng dẫn không có quy định nào cấm hay hạn chế người nhận con nuôi được tìm hiểu, gặp gỡ trẻ, cha mẹ đẻ của trẻ hay người nuôi dưỡng trước khi chính thức thực hiện các thủ tục xin nhận con nuôi. Do đó, cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có quyền thỏa thuận với nhau về một số quyền và nghĩa vụ, đồng thời các bên cũng nhận được sự tư vấn về quyền và nghĩa vụ khi tham gia vào quan hệ cho nhận

con nuôi, cũng như các thủ tục pháp lý của quá trình giải quyết việc con nuôi, để các bên có sự chuẩn bị về tâm lý, vật chất, thời gian trước khi quyết định tham gia quan hệ này.

Đối với cha mẹ đẻ của trẻ, điều cần thiết phải được tư vấn trước khi họ đưa ra quyết định cho con là việc chấm dứt các quyền, nghĩa vụ pháp lý đối với trẻ và có thể có khả năng vĩnh viễn không bao giờ được gặp lại con trong tương lai. Thực tế tại Thừa Thiên Huế cho thấy hầu hết các trường hợp cha, mẹ đẻ từ bỏ quyền làm cha mẹ và đồng ý cho con làm con nuôi người khác là những trường hợp có quan hệ ngoài giá thú, nhất là các ông bố, bà mẹ trẻ lầm lỡ, không đủ khả năng để hứng chịu dư luận xã hội nên thường vội vã đưa ra quyết định về việc cho con. Do đó, Luật quy định cha, mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con nuôi sau khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày, là hợp lý, hợp tình, để tránh việc cha mẹ đẻ đưa ra một quyết định quan trọng trong một trạng thái tâm lý không sáng suốt.

Thứ ba, sự thể hiện ý chí của người được nhận làm con nuôi

Khoản 1 Điều 21 Luật Nuôi con nuôi quy định trường hợp nhận trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên làm con nuôi thì còn phải được sự đồng ý của trẻ em đó. Quy định này kế thừa Khoản 2 Điều 71 Luật HN&GĐ năm 2000 và tương đồng với Công ước quốc tế về quyền trẻ em, cũng như quy định của nhiều nước trên thế giới và Công ước Lahay 1993 về nuôi con nuôi, nhằm bảo đảm trẻ em được tự do bày tỏ ý kiến của mình và ý kiến của trẻ em phải được xem xét trong mọi vấn đề hoặc thủ tục ảnh hưởng đến trẻ em. Trẻ có quyền quyết định một cách độc lập có đồng ý làm con nuôi người khác hay không trên cơ sở tự nguyện, phù hợp với nhận thức, tình cảm của trẻ đối với việc được nhận làm con nuôi.

Thực tế ở độ tuổi này trẻ đã nhận thức được cuộc sống, có thể nhận biết được nhu cầu tình cảm của mình, có thể cảm nhận được sự an toàn của mình

trong môi trường gia đình mới hay không, vì vậy, việc tư vấn và lấy ý kiến của trẻ em ở độ tuổi này là cần thiết. Tuy nhiên trên thực tế trẻ em được nhận làm con nuôi ở độ tuổi này là rất ít, tại Thừa Thiến Huế trong 11 năm qua chỉ có 04/143 trẻ được nhận làm con nuôi có độ tuổi từ 9 tuổi trở lên, trong đó 02 trẻ do cha dượng nhận con riêng của vợ làm con nuôi và 02 trẻ được người thân trong gia đình nhận nuôi.

Thứ tư, sự thể hiện ý chí của Nhà nước

Việc nuôi con nuôi có được pháp luật công nhận hay không phải thông qua việc đăng ký nuôi con nuôi trước cơ quan có thẩm quyền. Sự thể hiện ý chí của Nhà nước là công nhận hoặc không công nhận việc nuôi con nuôi trên cơ sở xem xét ý chí tự nguyện của các bên đương sự, thẩm tra các điều kiện cần thiết về phía người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi, cũng như mục đích của việc nuôi con nuôi. Sự công nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thể hiện qua việc tiến hành đăng kí nuôi con nuôi và ra quyết định công nhận nuôi con nuôi. Quyết định công nhận nuôi con nuôi là cơ sở pháp lí làm phát sinh quan hệ pháp luật cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và đứa trẻ được nhận nuôi.

Lần đầu tiên, pháp luật nước ta đã điều chỉnh thống nhất vấn đề nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong một Luật, nhưng vẫn sử dụng khái niệm “nuôi con nuôi trong nước” và “nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài”. Vấn đề này Luật Nuôi con nuôi đã kế thừa và phát triển các quy định về nuôi con nuôi còn phù hợp của Bộ luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, các văn bản pháp luật khác đã qua thực tế kiểm nghiệm, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, khả thi của các quy định pháp luật về nuôi con nuôi trong mối tương quan hài hòa với phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc, pháp luật và thông lệ quốc tế.

Về cơ bản, điều kiện của việc nuôi con nuôi trong nước và việc nuôi

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 09/03/2024