sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa...” [20, tr.6].
Theo Trần Đình Thanh (2016), “Chính sách là sách lược và kế hoạch cụ thể để đạt được mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế”. Franc Ellis cho rằng: “Chính sách được xác định như là đường lối hành động mà Chính phủ lựa chọn đối với mọi lĩnh vực của nền kinh tế, kể cả mục tiêu mà Chính phủ tìm kiếm và lựa chọn các phương pháp để theo đuổi các mục tiêu đó” [20, tr.6].
Theo Vũ Cao Đàm (2011): “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo ra sự ưu đãi một hoặc một nhóm xã hội, kích thích vào động cơ hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội”. Theo đó thì khái niệm “hệ thống xã hội” được hiểu theo một ý nghĩa khái quát. Đó có thể là một quốc gia, một khu vực hành chính, một doanh nghiệp, một nhà trường... Chính sách là chủ trương, định hướng cơ bản được cơ quan có thẩm quyền xây dựng trên cơ sở đường lối, chiến lược của Nhà nước trong từng lĩnh vực cụ thể hoặc trong quy hoạch phát triển tổng thể nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những quan điểm này đề cập đến phạm trù chính sách theo những khía cạnh khác nhau và theo những mục đích khác nhau. Tuy nhiên, khi đề cập đến phạm trù chính sách cần phải làm rò: Chính sách là gì? Ai là người tạo ra nó? Nó tác động đến ai, đến cái gì? Từ yêu cầu trên có thể hiểu rằng, chính sách là công cụ, là biện pháp can thiệp của Nhà nước vào một ngành, một lĩnh vực hay toàn bộ nền kinh tế theo những mục tiêu nhất định, với những điều kiện thực hiện nhất định và trong một thời gian xác định [8].
Trong tài liệu của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2011) về hoạch định và phân tích chính sách công đã đưa nội dung khái niệm chính sách và chính sách công như sau: “chính sách là những hành vi ứng xử của chủ thể với các hiện tượng tồn tại trong quá trình vận động phát triển nhằm đạt mục tiêu nhất định”.
Chính sách công “là những quy định về sự ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo định hướng” [14, tr.13].
Vò Khánh Vinh (2012) đã đưa ra khái niệm chính sách công: “chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu và giải pháp, công cụ chính sách, nhằm giải quyết các vấn đề xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định” [31].
1.1.3. Khái niệm về chính sách văn hóa
Mọi quốc gia, dù thành văn hay bất thành văn, đều có chính sách văn hóa của mình. Nhìn chung, trong quá trình phát triển, chính sách văn hóa ban đầu thường là một bộ phận trong chính sách chung của quốc gia, sau đó, tùy thuộc vào sự phát triển của quan niệm về văn hóa và sức mạnh của văn hóa, chính sách văn hóa đã trở thành một bộ phận độc lập, tất nhiên là vẫn nằm trong hệ thống chính sách của quốc gia đó.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực hiện chính sách phát triển văn hóa trên địa bàn huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông - 1
- Thực hiện chính sách phát triển văn hóa trên địa bàn huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông - 2
- Mục Tiêu, Chủ Thể, Thực Hiện Chính Sách Phát Triển Văn Hóa
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Chính Sách Phát Triển Văn Hóa
- Thực hiện chính sách phát triển văn hóa trên địa bàn huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông - 6
Xem toàn bộ 89 trang tài liệu này.
Sự lớn mạnh của bộ phận chính sách này đã đòi hỏi một sự nghiên cứu về nó. Nửa cuối thế kỷ XX đã chứng kiến sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý văn hóa trên thế giới về vấn đề này. Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc (UNESCO), chính sách văn hóa là một tổng thể các nguyên tắc hoạt động, các cách thực hành, các phương pháp quản lý hành chính và phương pháp sử dụng ngân sách của Nhà nước dùng làm cơ sở cho các hoạt động văn hóa nghệ thuật [33]. UNESCO vào năm 1967 đã đưa ra một quan niệm về chính sách văn hóa như: “Chính sách văn hóa là một tổng thể những thực hành xã hội hữu thức và có suy tính kỹ về những can thiệp hay không can thiệp của Nhà nước vào các hoạt động văn hóa nhằm vào việc đáp ứng nhu cầu văn hóa của nhân dân, bằng cách sử dụng tối ưu tất cả những nguồn vật chất và nhân lực mà một xã hội nào đó sắp đặt vào một thời điểm thích hợp”[10].
Chính sách văn hóa là những tư tưởng chỉ đạo, những nguyên tắc và định hướng cơ bản trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa của một cộng đồng, quốc gia, dân tộc, khu vực lãnh thổ hoặc trong phạm vi quốc tế trong từng giai đoạn
nhất định. Thực hiện chính sách văn hóa là một khâu quan trọng trong chu trình chính sách công. Trong thực tiễn có nhiều loại chính sách khác nhau, xuất phát từ tầm quan trọng của văn hóa do đó chính sách văn hóa là một trong những chính sách quan trọng. Chính sách này nhằm phát triển văn hóa với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực phát triển xã hội và có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của mỗi quốc gia.
Các chính sách văn hóa đều là các thực hành nhà nước dựa trên các nguồn lực về tài chính, vật lực, nhân lực trong những điều kiện có thể có của thời điểm đó. Các tổ chức văn hóa dựa vào các nguồn lực này để triển khai các hoạt động thực thi chính sách.
Trong bối cảnh Việt Nam, khái niệm chính sách văn hóa đã được xác định dựa trên các quan niệm về văn hóa, về vai trò của văn hóa trong đấu tranh giành độc lập và phát triển đất nước, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Xác định được văn hóa là một trong trụ cột trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và phát triển bền vững đất nước. Chính sách văn hóa ở Việt Nam thường được thể hiện trong đề cương văn hóa của Đảng, văn kiện đại hội Đảng toàn quốc, nghị quyết hội nghị của Ban Chấp hành trung ương Đảng, trong hiến pháp - luật cơ bản của Nhà nước.
Do đó, có thể xây dựng khái niệm về chính sách phát triển văn hóa chung phù hợp với đặc điểm của Việt Nam như sau: “Chính sách phát triển văn hóa là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu, công cụ chính sách và giải pháp để giải quyết các vấn đề có liên quan đến phát triển văn hóa theo các mục tiêu đã xác định trên cơ sở vận dụng các điều kiện vật chất và tinh thần sẵn có của xã hội” [29, tr.13].
1.2. Vấn đề chính sách phát triển văn hóa
1.2.1. Vai trò của chính sách văn hóa
Có ba nhân tố quan trọng của phát triển là: Kinh tế thị trường, Vai trò của Nhà nước, Xã hội dân sự. Trong vai trò của Nhà nước đối với mọi lĩnh vực hoạt động, sự điều tiết của Nhà nước đối với văn hóa được cụ thể hóa ở chính sách văn hóa.
Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy, nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Văn hóa đã góp phần quan trọng nâng cao dân trí, dân chủ hóa đời sống xã hội, nâng cao tính năng động sáng tạo, tự chủ và tính tích cực xã hội của con người, hình thành các nhân tố mới, giá trị mới của con người Việt Nam. Sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày càng phong phú, đa dạng; công nghệ thông tin, nhất là thông tin đại chúng có bước phát triển mạnh mẽ. Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt được những kết quả cụ thể, thiết thực. Xã hội hóa hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, góp phần đáng kể vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa. Nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được bảo tồn, tôn tạo; nhiều phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm và phục dựng; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo,… được quan tâm.
Năm 1986, Đảng ta kế thừa và phát triển quan điểm về văn hóa của các giai đoạn trước, đưa ra quan điểm: “Văn hóa là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người, thể hiện trình độ phát triển chung của đất nước, là lĩnh vực sản xuất tinh thần, tạo ra các giá trị, sản phẩm làm giàu đẹp cuộc sống”.
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, khẳng định: “Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng nước và giữ nước…, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình.
Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã nhấn mạnh: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải
được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Tiếp tục phát triển các quan điểm trước đây về phát triển văn hóa, Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh hun đúc nên phẩm chất, cốt cách con người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Nhấn mạnh xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đại hội XIII của Đảng một lần nữa lại khẳng định việc tiếp tục thực hiện sự nghiệp phát triển và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa con người Việt Nam thật sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Đảm bảo sự vận hành một cách hài hòa toàn bộ các lĩnh vực trong đời sống văn hóa trong mối quan hệ với các lĩnh vực khác của đời sống như kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh là một trong những yếu tố vừa bền vững, vừa năng động, văn hóa sẽ góp phần khai thác, nhân lên “sức mạnh mềm” của quốc gia để tạo ra sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Hơn nữa, “sức mạnh nội sinh” của văn hóa là sức mạnh sinh sôi, nảy nở từ bên trong. Do đó, trong chiến lược kinh tế, quốc phòng an ninh, không thể không coi trọng sức mạnh đặc biệt này.
Từ đó, chính sách văn hóa có các vai trò như sau:
Một là, chính sách văn hóa là định hướng cho sự phát triển toàn bộ hay một lĩnh vực trong đời sống văn hóa.
Hai là, đảm bảo sự vận hành một cách hài hòa toàn bộ các lĩnh vực trong đời sống văn hóa trong mối quan hệ với các lĩnh vực khác của đời sống như kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh.
Ba là, chính sách văn hóa thể hiện sự phát triển ưu tiên một số lĩnh vực của đời sống văn hóa thông qua các chính sách tài trợ, các điều kiện ưu đãi (miễn, giảm thuế, hay các điều kiện ưu đãi khác).
Bốn là, hạn chế những xu hướng văn hóa không có lợi cho sự phát triển đất nước trong từng thời điểm nhất định (kiểm soát, kiểm duyệt các ấn phẩm; hạn chế
hoặc ngăn cấm một số hoạt động thực hành văn hóa trong phong tục, tín ngưỡng, tôn giáo,…).
Tuy nhiên, sự can thiệp của Nhà nước nên mang tính định hướng bằng chính sách, các nguồn lực và các công cụ quản lý để phát triển văn hóa theo hướng tích cực. Bởi vì, nếu chính văn hóa sai lầm, đi ngược lại với thực tiễn khách quan sẽ không tạo ra môi trường khích thích sự sáng tạo và phát huy các khả năng tiềm ẩn của con người, sẽ làm cản trở sự phát triển của văn hóa nói riêng và của xã hội nói chung.
1.2.2. Các đặc tính của chính sách văn hóa
Cũng như các loại chính sách khác như: chính sách chính trị, chính sách kinh tế, chính sách xã hội… chính sách văn hóa cũng thực hiện mục tiêu thức đẩy sự phát triển xã hội, bởi vì văn hóa là môi trường để nuôi dưỡng sự sáng tạo của con người, định hướng cho con người đến chân - thiện - mỹ (cái đúng, cái tốt, cái đẹp), là một trong những nền tảng của xã hội. Văn hóa hiện đại có tính bao quát, liên quan và tác động đến nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề và nhiều thành phần trong xã hội để thúc đẩy các tiến trình dân chủ, nên không thể sử dụng các biện pháp mang tính răn đe, ép buộc, trừng phạt… mà chỉ là mang tính bảo trợ, hỗ trợ, thức đẩy và hạn chế tính chất hành chính.
Bên cạnh đó, chính sách văn hóa mang tính “nhạy cảm” do nó có tác động đến một bộ phận trí thức có trình độ cao, đến giai cấp tinh hoa trong xã hội có tính độc lập cao, nên trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách văn hóa cần thận trọng và có tính thuyết phục, tránh sự cưỡng ép.
Cuối cùng, tuy có tính chất thúc đẩy, hỗ trợ, bảo trợ, nhưng chính sách văn hóa cũng cần có sự can thiệp của Nhà nước mang tính định hướng, do Nhà nước chủ động thực hiện thông qua các hoạt động đầu tư, tài trợ, đặt hàng và sử dụng các công cụ hành chính nhưng phải đảm bảo sự cân bằng giữa Nhà nước xã hội dân sự.
1.2.3. Các loại hình chính sách văn hóa
- Chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa: Luật Di sản văn hóa năm 2001, 2009 và văn bản hợp nhất 10/VBHN-VPQH năm 2013 cùng các thông tư, nghị định, quyết định,… hướng dẫn thực thi luật này. Luật cũng như các văn bản
dưới luật liên quan đến di sản văn hóa đều chỉ rò cách hiểu về di sản văn hóa và nhấn mạnh đến quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đối với di sản văn hóa, bảo vệ và phát huy giá trị của các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể và quản lý nhà nước về di sản văn hóa.
- Chính sách đầu tư cho văn hóa: Quan tâm đến các chính sách và việc thực thi chính sách phân bổ ngân sách nhà nước cho văn hóa tính theo đầu người, theo sự phân cấp cũng như phân bổ theo ngành, theo lĩnh vực văn hóa. Điều này thể hiện rò trách nhiệm của Nhà nước đối với văn hóa cũng như xác định mức độ nhìn nhận về tầm quan trọng của văn hóa trong xã hội.
Chính sách đầu tư cho văn hóa được xác định trong các Nghị quyết, Cương lĩnh, Chiến lược như: Nghị quyết TƯ 5 khóa VIII, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020,… với việc xác định: đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho con người, đầu tư cho phát triển bền vững.
- Chính sách ngoại giao văn hóa: Đại hội XI của Đảng đã chỉ rò: “Kết hợp chặt chẽ đối ngoại của Đảng với ngoại giao của Nhà nước và ngoại giao nhân dân, giữa ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa”.
Quan điểm của Đảng ta tại Đại hội XII khẳng định: “Chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”.
Văn kiện của Đại hội lần thứ XIII của Đảng cũng khẳng định Việt Nam tiếp tục giữ vững định hướng phát triển con người và xây dựng nền văn hóa thông qua thực hiện các nhiệm vụ như: Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa; Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước.
Như vậy, văn hóa và ngoại giao văn hóa ở Việt Nam giữ vị trí vô cùng quan trọng trong các hoạt động đối ngoại, việc triển khai chính sách ngoại giao văn hóa đang trở thành một trong ba chính sách ngoại giao chủ yếu, cùng với ngoại giao
chính trị và ngoại giao kinh tế. Việt Nam là quốc gia đã và đang tích cực đẩy mạnh ngoại giao văn hóa, sử dụng các hình thức văn hóa nghệ thuật, lịch sử, tư tưởng, truyền thống văn hóa,... để chuyển tải những thông điệp cơ bản của chính sách đối ngoại quốc gia, tạo hình ảnh tốt đẹp của đất nước để tạo ra uy tín, vị thế và ảnh hưởng của Việt Nam với thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
- Chính sách công nghiệp văn hóa: Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 cùng các văn bản pháp quy liên quan đến sự hình thành và đẩy mạnh ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam. Các ngành công nghiệp văn hóa là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi nhằm thu hút tối đa nguồn lực từ các doanh nghiệp và xã hội để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa dựa trên sự sáng tạo, khoa học công nghệ và bản quyền trí tuệ; khai thác tối đa yếu tố kinh tế của các giá trị văn hóa. Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, phát huy được lợi thế của Việt Nam, phù hợp với các quy luật cơ bản của kinh tế thị trường; được đặt trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ giữa các ngành, các khâu sáng tạo, sản xuất, phân phối, phổ biến và tiêu dùng. Phát triển công nghiệp văn hóa gắn liền với việc quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, góp phần bảo vệ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình giao lưu, hội nhập và hợp tác quốc tế.
Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam bao gồm: Quảng cáo; kiến trúc; phần mềm và các trò chơi giải trí; thủ công mỹ nghệ; thiết kế; điện ảnh; xuất bản; thời trang; nghệ thuật biểu diễn; mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; truyền hình và phát thanh; du lịch văn hóa trở thành những ngành kinh tế dịch vụ quan trọng, phát triển rò rệt về chất và lượng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm thông qua việc sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm, dịch vụ văn hóa đa dạng, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ, tiêu dùng văn hóa của người dân trong nước và xuất khẩu; góp phần quảng bá hình ảnh đất