nước, con người Việt Nam; xác lập được các thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa; ưu tiên phát triển các ngành có nhiều lợi thế, tiềm năng của Việt Nam.
Phát triển công nghiệp văn hóa có tác động lớn đối với bức tranh kinh tế, văn hóa và xã hội của đất nước.
1.3. Mục tiêu, chủ thể, thực hiện chính sách phát triển văn hóa
1.3.1. Mục tiêu phát triển văn hóa
1.3.1.1. Mục tiêu chung
Mục tiêu của sự nghiệp phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới được Đảng ta xác định là xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện để xứng đáng với vai trò vừa là trung tâm của phát triển, vừa là chủ thể của phát triển, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.
Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã nhấn mạnh mục tiêu của việc xây dựng, phát triển văn hóa và con người Việt Nam là phải hướng đến đáp ứng yêu cầu phát triền bền vững đất nước. Mục tiêu chung là: Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng đảm bảo sự phát triển của đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong mục tiêu này, đã cụ thể hóa định hướng phát triển văn hóa và con người trong Cương lĩnh năm 2011 và gắn chặt yêu cầu phát triển văn hóa và con người với nhiệm vụ phát triển bền vững của đất nước, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ tổ quốc, thực hiện mục tiêu của sự nghiệp đổi mới là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Kế thừa có chọn lọc Văn kiện Đại hội XI và phát triển những quan điểm chỉ đạo, những định hướng lớn của Đảng về văn hóa, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã khẳng định bốn đặc trưng của nền văn hoá Việt Nam là “dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”. Văn kiện Đại hội đã XII nhấn
Có thể bạn quan tâm!
- Thực hiện chính sách phát triển văn hóa trên địa bàn huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông - 1
- Thực hiện chính sách phát triển văn hóa trên địa bàn huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông - 2
- Vấn Đề Chính Sách Phát Triển Văn Hóa
- Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Chính Sách Phát Triển Văn Hóa
- Thực hiện chính sách phát triển văn hóa trên địa bàn huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông - 6
- Kết Quả Thực Hiện Trên Lĩnh Vực Quốc Phòng - An Ninh
Xem toàn bộ 89 trang tài liệu này.
mạnh: “Các cấp, các ngành phải nhận thức đầy đủ và thực hiện có kết quả mục tiêu: xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”. Trong Văn kiện Đại hội đã XIII có nêu: “Phát huy giá trị văn hoá, con người Việt Nam và sức mạnh toàn dân tộc, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm gắn kết hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội”.
1.3.1.2. Mục tiêu cụ thể
Trên cở sở mục tiêu chung về phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong thời gian tới, để hiện thực hóa mục tiêu chung cần định hướng một số mục tiêu cụ thể như sau:
Một là, hoàn thiện các chuẩn mực giá trị văn hóa, con người Việt Nam, tạo môi trường và điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, ý thức tuân thủ pháp luật; đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân mình, gia đình, cộng đồng, xã hội và đất nước.
Hai là, xây dựng môi trường lành mạnh, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Xây dựng văn hóa trong hệ chính trị, trong từng cộng đồng làng bản, thôn, bon khu phố, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và mỗi gia đình. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa, làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người Việt Nam hoàn thiện nhân cách.
Ba là, hoàn thiện thể chế, chế định pháp lý và thiết chế văn hóa đảm bảo xây dựng và phát triển văn hóa, con người trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập Quốc tế.
Bốn là, xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa, tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam.
Năm là, từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền và các giai tầng xã hội. Ngăn chặn và đẩy lùi sự xuống cấp về đạo đức.
1.3.2. Chủ thể chính sách phát triển văn hóa
Có thể thấy từ thực tiễn phát triển văn hóa sau hơn 23 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), Đảng cộng sản Việt Nam đã nhận thức đầy đủ hơn mối quan hệ biện chứng giữa phát triển văn hóa và phát triển con người, xem phát triển con người là trọng tâm, cốt lòi của xây dựng văn hóa là xây dựng con người. Vì chúng ta đều biết, nói về văn hóa cũng là nói về con người, vì văn hóa là của con người, do con người, vì con người, gắn kết giữa xây dựng văn hóa với xây dựng con người vừa là định hướng vừa là mục tiêu của phát triển. Theo đó mục tiêu xây dựng văn hóa cũng là mục tiêu xây dựng con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đưa con người vào vị trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế, xã hội, đồng thời là chủ thể của sự phát triển. Do đó, có thể xem phát triển con người cũng là phát triển văn hóa. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền lợi ích của dân tộc, đất nước với quyền làm chủ của nhân dân, bồi đắp tình bạn, đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người Việt Nam, đáp ứng với xu thế phát triển của thời đại và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.
Xuất phát từ khái niệm: “Chính sách phát triển văn hóa là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu, công cụ chính sách và giải pháp đề nghị quyết các vấn đề có liên quan đến phát triển văn hóa theo các mục tiêu đã xát định trên cơ sở vận dụng các điều kiện vật chất và tinh thần sẵn có của xã hội” và trên cơ sở các quan điểm, định hướng của Đảng về phát triển văn hóa trong giai đoạn hiện nay. Nhà nước cụ thể hóa các mục tiêu phát triển sử dụng các công cụ chính sách và các giải pháp chính sách để tác động đến sự phát triển của văn hóa theo định hướng của Đảng về phát triển văn hóa. Hay nói cách khác, thông qua các quyết định chính trị, Nhà nước điều chỉnh các hành vi liên quan đến văn hóa, định hướng các hoạt động văn hóa nhằm phát huy các mặt tích cực và hạn chế các mặt tiêu cực của văn hóa, khuyến khích các tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực văn hóa theo định hướng của Đảng, kiểm soát và phân phối các nguồn lực, tạo môi trường cho văn hóa phát triển… Do đó, có thể xem Nhà nước là chủ thể của chính sách phát triển văn hóa.
1.3.3. Công cụ chính sách phát triển văn hóa
1.3.3.1. Pháp luật
Có cấp độ cao nhất của chính sách, là các quy định của pháp luật liên quan đến văn hóa, nó thể chế các quan hệ xã hội trong lĩnh vực văn hóa theo các quan điểm, chủ trương của Đảng cầm quyền về phát triển văn hóa, điều chỉnh các hành vi giữa các bên liên quan trên cơ sở các quy định của luật pháp và có hiệu lực cao nhất. Tuy nhiên, cần đảm bảo tính toàn diện, đồng bộ, phù hợp, đảm bảo yêu cầu về kỹ thuật lập pháp, hệ thống pháp luật về văn hóa, nếu thiếu các yêu cầu đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực này.
Kế đến là các văn bản pháp quy của Chính phủ và các cơ quan trực thuộc Chính phủ như Nghị định, thông tư, quyết định… liên quan có tác động đến những lĩnh vực nhất định của văn hóa để quản lý, điều hành các hoạt động văn hóa ở tầm vĩ mô.
Cuối cùng là các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, chương trình, quyết định của Nhà nước và các cơ quan hành chính Nhà nước, địa phương liên quan đến lĩnh vực văn hóa, thể hiện việc điều hành, quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa.
1.3.3.2. Kinh tế
Một là, chính sách đầu tư của Nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa thông qua ngân sách nhà nước hàng năm. Đây là loại công cụ mang tính thực tiễn, tác động trực tiếp đến sự phát triển của văn hóa, là công cụ hữu hiệu, tích cực để tác động đến lĩnh vực văn hóa và chịu sự đánh giá của xã hội thông qua hiệu quả thực hiện và hoạt động kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước và xã hội.
Hai là, xã hội hóa các hoạt động liên quan đến lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo dục nhằm tranh thủ phát huy tiềm năng trí tuệ và vật chất trong nhân dân, huy động toàn xã hội chăm lo sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao; tạo điều kiện để toàn xã hội, đặc biệt là các đối tượng chính sách, người nghèo được thụ hưởng thành quả giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao ở mức độ ngày càng cao.
Ba là, sử dụng chính sách miễn, giảm tăng thuế đối với các hoạt động văn hóa, thể hiện sự ưu tiên của nhà nước đối với từng lĩnh vực văn hóa, từng loại hình văn hóa trong từng giai đoạn nhất định. Đây là công cụ đắc lực trong chính sách văn
hóa mang tầm vĩ mô của mỗi quốc gia, qua đó khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân đầu tư, tài trợ cho văn hóa theo định hướng của nhà nước; các ưu đãi về thuế bao gồm giảm thuế thu nhập, thảm thuế giá trị gia tăng, thuế nghề nghiệp, thuế thu nhập, lệ phí đăng ký, hiến tặng tài sản, bảo trợ, tài trợ cho văn hóa thông qua thuế; tổ chức, cá nhân tài trợ bảo trợ cho các tổ chức văn hóa được giảm hoặc miễn thuế thu nhập khi tổ chức hoạt động văn hóa…
1.3.3.3. Hành chính
Các phương pháp hành chính được thực hiện thông qua các hoạt động kiểm tra, thanh tra việc thi hành luật trong việc điều hành của cơ quan nhà nước về chấp hành các chính sách về văn hóa của các tổ chức, cá nhân hoạt động văn hóa.
1.3.4. Giải pháp chính sách phát triển văn hóa
1.3.4.1. Giải pháp về lãnh đạo, chỉ đạo về văn hóa
Việt Nam có duy nhất một Đảng lãnh đạo, nên có nhiều thuận lợi trong việc đề ra các chủ trương, đường lối phát triển đất nước một cách thống nhất và toàn diện, trong đó có lĩnh vực văn hóa. Do đó, trước hết phải xác định xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam là một nhiệm vụ quan trọng, trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, nhất là giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bên cạnh đó cần tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong Đảng, trong hệ thống chính trị và toàn xã hội về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa và con người Việt Nam, mỗi thành viên trong Đảng cần nêu cao vai trò gương mẫu, động viên, tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối về phát triển văn hóa.
Lãnh đạo phát triển văn hóa theo hướng vừa bảo đảm về văn hóa, văn hóa nghệ thuật, báo chí phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, nhưng cũng vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ cá nhân sáng tạo, trên cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn; khắc phục tình trạng buôn lỏng sự lãnh đạo hoặc mất dân chủ, hạn chế tự do sáng tạo.
Coi trọng xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước, mà quan trọng là học tập làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Văn hóa, đạo
đức và lối sống lành mạnh phải được thực hiện trước hết trong mọi tổ chức Đảng, nhà nước, đoàn thể, trong cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, trong từng đảng viên, hội viên đối với chính sách phát triển văn hóa.
Đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức trên lĩnh vực văn hóa. Thực hiện có hiệu quả hoạt động báo chí, văn hóa, văn nghệ, chống lại những quan điểm, sai trái lệch lạc của các thế lực thù địch chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa.
1.3.4.2. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa
Đổi mới nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ thông tin, truyền thông hiện nay.
Cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách về văn hóa phù hợp với thực tiễn ở nước ta.
Có chính sách phát triển văn hóa đặc thù cho đồng bào dân tộc thiểu số, vì mỗi dân tộc đều có nền tảng văn hóa khác nhau. Do đó, các cơ quan và cá nhân làm công tác quản lý nhà nước về văn hóa cần phải quan tâm hơn đến vai trò của văn hóa của từng dân tộc để phát huy các giá trị, bản sắc văn hóa riêng (khía cạnh tích cực) của mỗi dân tộc sinh sống tại địa phương đồng thời đẩy lùi các khía cạnh tiêu cực của văn hóa gây cản trở (rào cản) đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và của cả nước.
Chú trọng công tác thanh tra, kiểm tra về công tác văn hóa, quản lý các hoạt động văn hóa, phát hiện và xử lý kịp thời cá nhân và tổ chức để xảy ra sai phạm. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội, của cộng đồng dân cư và công dân đối với việc tổ chức và quản lý hoạt động văn hóa.
1.3.4.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa
Xây dựng đội ngũ cán bộ văn hóa, phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh cán bộ và các cá nhân hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật; trọng dụng người có tài, có đức.
Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa và cán bộ cơ sở trong lĩnh vực văn hóa.
Xây dựng trường văn hóa tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng và quy mô đào tạo.
Xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong các dân tộc thiểu số, có chính sách khuyến khích họ trở về công tác tại địa phương, đặc biệt là địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhằm bảo tồn, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số tại địa phương. Cử sinh viên, cán bộ đi đào tạo chuyên ngành văn hóa, nghệ thuật, thể thao ở các nước phát triển. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế.
1.3.4.4. Tăng cường nguồn lực cho lĩnh vực văn hóa
Đầu tư của nhà nước cho văn hóa phải tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế. Sử dụng hiệu quả nguồn đầu tư của nhà nước, ưu tiên các vùng miền núi, biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số… và tăng cường nguồn lực bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa nghệ thuật truyền thống.
Xã hội hóa trong lĩnh vực văn hóa nhằm tranh thủ để huy động sức mạnh tổng hợp phát triển văn hóa xây dựng con người.
Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi về đất, tín dụng, thuế và phí đối với các cơ sở đào tạo và thiết chế văn hóa do khu vực tư nhân đầu tư, đặc biệt là ở vùng còn khó khăn. Khuyến khích hình thành các quỹ đào tạo, khuyến học, phát triển nhân tài quảng bá văn học nghệ thuật, phát triển điện ảnh, hỗ trợ xuất bản…
Đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa cơ bản tại các địa phương, các cơ quan, trường học, khu công nghiệp, khu dân cư… đáp ứng nhu cầu cơ bản về văn hóa.
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác văn hóa để nghiên cứu, triển khai thực hiện các chính sách đạt hiệu quả, đi vào đời sống.
1.3.4.5. Tăng cường hội nhập trên lĩnh vực văn hóa
Tăng cường hội nhập với thế giới, tranh thủ các điều kiện quốc tế thuận lợi quảng bá hình ảnh đất nước con người Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc. Đồng thời, tích cực tham gia vào các sự kiện văn hóa của các nước trên thế giới để tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Thành lập các tổ chức văn hóa của Việt Nam ở nước ngoài, tổ chức các sự kiện văn hóa mang tầm vóc quốc tế tại Việt Nam nhằm nâng cao vị thế của văn hóa Việt Nam.
1.4. Thể chế chính sách phát triển văn hóa
Đối với một quốc gia văn hóa là sức mạnh nội sinh, động lực phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa gắn chặt chẽ quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nếu văn hóa trì tuệ thì kinh tế - xã hội không phát triển, xây dựng môi trường văn hóa tạo nên những yếu tố văn hóa tích cực, ngăn chặn hạn chế tối đa những yếu tố tác động tiêu cực về văn hóa. Đảm bảo cho sự phát triển hài hòa về phát triển văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội.
Như đã đề cập ở phần trên, văn hóa là động lực cho người lao động phát huy sáng tạo bản thân, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, học hỏi và áp dụng khoa học của nước ngoài trong sản xuất để tạo ra hàng hóa với số lượng và chất lượng ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu của xã hội đồng thời, góp phần tăng cường sự hiểu biết, mở rộng sự giao lưu hợp tác với các nước khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Các giá trị văn hóa truyền thống, chuẩn mực, các tệ nạn xã hội và các mặt tiêu cực khác trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Một là, vì chủ thể văn hóa là con người, vì vậy sẽ có những mặt tích cực và tiêu cực. Do đó, Đảng cần có định hướng cho văn hóa phát triển theo hướng tích cực, hạn chế tiêu cực. Đồng thời, thông qua các văn bản quy phạm pháp luật, sẽ tạo cơ sở pháp lý cho các chủ thể tham gia vào lĩnh vực văn hóa.
Hai là, hiện nay Việt Nam đang chủ động, hội nhập quốc tế về văn hóa… bên cạnh những mặt tích cực trong quá trình hội nhập cũng đứng trước những thách thức có tính tiêu cực làm biến dạng giá trị văn hóa truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, tác động đến nhận thức người nhân dân, ảnh hưởng đến công cuộc xây xựng và bảo vệ đất nước.