Thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao ở Việt Nam hiện nay - 2

DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ

Sơ đồ 1: Khung các biến liên quan trong quá trình thực hiện chính sách 27

Hình 3.3: Mức đóng vào các quỹ thành phần bảo hiểm xã hội 73

Hình 3.4: Tổng hợp mức hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội 73

Hình 3.5: Mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội đối với phu nhân/phu quân của thành viên cơ quan ở nước ngoài mà trước đó chưa từng tham gia BHXH 74

Hình 3.6: Thực hiện chính sách BHXH đối với phu nhân/phu quân (2015-2019) 75

Hình 3.2: Thực trạng tuyển mới nhân lực vào Bộ Ngoại giao theo chỉ

tiêu trong các năm 2016 - tháng 9/2021 84

Hộp 1: Một số ý kiến thu thập được qua phỏng vấn chuyên gia trong và ngoài ngành về hợp phần chính sách BHXH-BHYT cho cán bộ ngoại giao và phu quân/phu nhân trong thời gian nhiệm kỳ ở các

địa bàn ngoài nước thực hiện trong các năm 2019-2020 93

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 233 trang tài liệu này.

Hình 4.11: Đề xuất một số tiêu chuẩn đối với nhân lực ngành Ngoại giao.. 141

MỞ ĐẦU

Thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao ở Việt Nam hiện nay - 2

1. Tính cấp thiết của Đề tài

Phát triển là quyền của con người và con người là trung tâm của quá trình phát triển. Điều này được khẳng định trong Tuyên bố năm 1986 của Liên Hiệp quốc về quyền được phát triển. Ở Việt Nam, việc đảm bảo mọi người “có điều kiện phát triển toàn diện” đã được hiến định tại Điều 1 và Điều 2 của Hiến pháp năm 2013. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (sau đây gọi tắt là Đại hội XIII của Đảng) đã đề ra các mục tiêu phát triển của đất nước và nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát huy nhân tố con người, khẳng định một trong 3 đột phá chiến lược là phát triển nhân lực, là nhiệm vụ “then chốt của then chốt”. Báo cáo Chính trị Đại hội XIII của Đảng đã nêu rõ phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt.

Đối với ngành Ngoại giao, xây dựng tổ chức bộ máy và công tác cán bộ là một trong 5 bài học lớn đúc rút trong suốt chiều dài 77 năm bảo vệ và xây dựng Tổ quốc và trong 36 năm Đổi mới. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, kỷ nguyên số và sự phát triển nhanh chóng của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0) đặt ra hàng loạt vấn đề tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Trong bối cảnh đó, thực thi hiệu quả chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao ngày càng trở nên cấp thiết.

Thứ nhất, nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao ngày càng đóng vai trò chủ đạo trong cạnh tranh và phát triển của mỗi quốc gia trong bối cảnh nền kinh tế tri thức, khoa học công nghệ và toàn cầu hóa. Trong đó, nhân lực ngành Ngoại giao đóng vai trò hết sức quan trọng không chỉ phục vụ công tác đối ngoại mà còn trong tổng thể các lĩnh vực phát triển của đời sống kinh tế, chính trị - xã hội. Do vậy, việc tiếp tục chăm lo, phát triển nhân lực ngành Ngoại giao chính là đầu tư cho sự phát triển và hội nhập sâu rộng của đất nước, góp phần nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.

Thứ hai, mặc dù chặng đường 77 năm qua đã chứng kiến sự trưởng thành vượt bậc của đội ngũ nhân lực ngành Ngoại giao, toàn diện cả về tầm nhìn, tư duy, bản lĩnh, phong cách và phẩm chất đạo đức cách mạng, nhưng thực tế chất lượng nhân lực ngành Ngoại giao hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của sự phát triển của xã hội Việt Nam nói chung, ngoại giao nói riêng. Vẫn còn tồn tại những trường hợp chưa đáp ứng đầy đủ về số lượng và chất lượng nhân lực để thực hiện nhiệm vụ; nhân lực chưa hoàn toàn chủ động bắt kịp nhu cầu, diễn biến trong nước và thế giới, đặc biệt trong những lĩnh vực được xác định phải có đột phá trong chiến lược phát triển nhân lực quốc gia như luật quốc tế, ngoại giao kinh tế, truyền thông quốc tế và một số lĩnh vực mới...

Thứ ba, chính sách và thực hiện chính sách phát triển nhân lực của Việt Nam nói chung và nhân lực ngành Ngoại giao nói riêng còn những hạn chế, bất cập, chưa tương thích với mục tiêu, yêu cầu và điều kiện thực tế, cần có sự nghiên cứu, nhận diện để thay đổi và giải quyết. Những hạn chế này thể hiện ở tình trạng hẫng hụt giữa các thế hệ cán bộ ngành Ngoại giao ở cơ quan Bộ, chính sách tuyển dụng chưa đều qua các năm, thiên lệch về “tuyển dụng tiềm năng” hơn “tuyển dụng kinh nghiệm”; chưa tối ưu hóa quá trình thực hiện các chế độ về bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), an sinh xã hội (ASXH); vẫn tồn tại những khoảng trống trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chiến lược, đào tạo công nghệ thông tin và kỹ năng số hay khối lượng đào tạo dành cho các đối tượng chưa tương xứng, nhất là đối với công chức và viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập, giữa khối nhân lực ở Trung ương và địa phương. Bên cạnh đó, một số hạn chế khác được ghi nhận bao gồm thiếu cơ chế đủ mạnh trong thu hút người tài, hạn chế về chất lượng cán bộ làm quan hệ đa phương, vướng mắc trong triển khai, sắp xếp cơ cấu tổ chức và tiêu chuẩn bố trí cán bộ, chất lượng cán bộ của Ngành [54, tr. 2].

Hiện nay, việc thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao đang đứng trước những yêu cầu cấp thiết. Quá trình toàn cầu hóa cao, những tiêu chuẩn mới trong kỷ nguyên số và CMCN 4.0 và tình hình thế giới biến động khó lường. Các đặc điểm này tác động mạnh mẽ đến việc hình thành các yêu cầu mới đối với phát triển nhân lực. Theo đó, các tiêu chuẩn mới đòi hỏi nhân lực ngành Ngoại giao phải bổ sung những phẩm chất, năng lực khác so với trước đây cũng như đối với hệ thống giáo dục, đào tạo đòi hỏi đào tạo lên những lớp cán bộ mới, thế hệ nhân lực mới phù hợp với kỷ nguyên số, làm chủ và vận dụng các công nghệ trong công việc, đủ kiến thức và kỹ năng ứng biến với tình hình thế giới biến động nhanh và khó lường.

Phát triển nhân lực ngành Ngoại giao trong bối cảnh hiện nay không còn bó hẹp trong đào tạo, bồi dưỡng mà cần tạo ra những con người phát triển về mọi mặt, được chuẩn bị về mọi mặt và biết làm mọi việc [134], đáp ứng sự phát triển kinh tế nhanh, bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa và CMCN 4.0 [103]. Xây dựng nhân lực của Ngành cần trước hết là đào tạo đội ngũ thấm nhuần lập trường chính trị, lý tưởng cách mạng, trung thành với quốc gia, dân tộc, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, giỏi ngoại ngữ, giỏi chuyên môn, có phong cách ngoại giao Việt Nam, tự tin và khiêm nhường, vững vàng, khôn khéo, mưu lược [127]. Việc thực hiện phát triển nhân lực Ngành cần nâng cao đòi hỏi về chất lượng, hiệu quả, sâu rộng hơn về lĩnh vực và lực lượng tham gia, đồng bộ chặt chẽ hơn về phối hợp, chủ động tích cực hơn trong triển khai [20].

Từ bối cảnh đó, Luận án đã đưa ra câu hỏi khoa học là: Cần phải làm gì và thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao của Việt Nam như thế nào để đáp ứng yêu cầu mới? Câu hỏi khoa học nêu trên được cụ thể hóa thành 3 câu hỏi phụ như sau: (i) Đặc điểm và vai trò của nhân lực ngành Ngoại giao là gì? (ii) Thực tiễn thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại

giao hiện nay như thế nào? (iii) Cần có những giải pháp gì để tăng cường thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao nước ta hiện nay?

Để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu nêu trên, giả thuyết khoa học Luận án đưa ra là: Công tác thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao hiện chưa thực sự phù hợp để tạo điều kiện phát triển toàn diện đội ngũ cán bộ, công chức ngành Ngoại giao hiện nay. Cụ thể là: (1) Nhân lực ngành Ngoại giao là những người có trình độ chuyên môn cao, đảm bảo các yêu cầu năng lực và đạo đức nghề nghiệp theo quy định của Việt Nam và các quy định đối với viên chức ngoại giao tại các cơ quan đại diện theo công ước, quy định quốc tế về ngoại giao, lãnh sự. (2) Thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao hiện nay đã đạt được những kết quả nhất định song vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu về số lượng, chất lượng trước yêu cầu của Ngành trong bối cảnh và nhiệm vụ mới. (3) Nếu tăng cường các giải pháp thực hiện đồng bộ theo cách tiếp cận hệ thống, liên ngành, toàn diện với các nguồn lực được đảm bảo thì sẽ khắc phục được những hạn chế trong việc thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao.

Với những hạn chế hiện nay, để đạt được mục tiêu về phát triển nhân lực ngành Ngoại giao trong bối cảnh mới đặt ra nhu cầu cấp bách nghiên cứu hoàn thiện và tăng cường thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao ở nước ta. Do vậy, nghiên cứu sinh chọn đề tài “Thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao ở Việt Nam hiện nay” làm luận án tiến sĩ chuyên ngành chính sách công.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Luận án hệ thống hóa, phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực trạng thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao, từ đó đề xuất định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao nước ta nhằm đáp ứng yêu cầu của bối cảnh, tình hình mới.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận án thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau:

Một là, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến Đề tài

Hai là, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về chính sách và thực hiện phát triển nhân lực ngành Ngoại giao.

Ba là, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao, chỉ ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân.

Bốn là, xác định mục tiêu và đề xuất định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao ở Việt Nam trong giai đoạn mới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao ở Việt Nam.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

3.2.1. Phạm vi về thời gian

Luận án tập trung đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao ở nước ta từ khi Luật Cán bộ, công chức năm 2008 có hiệu lực thi hành (ngày 01/01/2010) đến nay và đề xuất định hướng, giải pháp tăng cường thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao trong giai đoạn 2023-2030.

3.2.2. Phạm vi không gian

Luận án nghiên cứu việc thực hiện chính sách phát triển nhân lực là cán bộ, công chức, viên chức, người làm việc trong ngành Ngoại giao, gồm nhân lực ở trong nước (Bộ Ngoại giao, Sở Ngoại vụ tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị sự nghiệp công lập ở trong nước) và nhân lực ngành làm việc ở nước ngoài (tại cơ quan đại diện, phái đoàn Việt Nam ở nước ngoài và các tổ chức quốc tế). Nhân lực ở các Vụ Hợp tác quốc tế/Quan hệ quốc tế của các Bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ hoạt động trong lĩnh vực

đối ngoại nhà nước không phải là khách thể nghiên cứu của luận án. Nhân lực của các cơ quan này là đối tượng chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Ngoại giao trong triển khai chính sách đối ngoại; tuy nhiên, về biên chế, họ không phải nhân lực trực tiếp thuộc biên chế Bộ Ngoại giao, không có trong hệ thống bảng lương của Bộ Ngoại giao. Về cơ chế báo cáo, nhóm nhân lực này thực hiện chế độ báo cáo trực tiếp lên các đơn vị chủ quản, không phải là Bộ Ngoại giao. Bên cạnh đó, về chức năng, nhiệm vụ, nhân lực trong các Vụ Hợp tác quốc tế/Quan hệ quốc tế của các Bộ, ngành, cơ quan khác đa số phụ trách mạng lưới quan hệ với các đối tác nước ngoài của cơ quan mình và thường phục vụ các dự án hợp tác cụ thể với các đối tác nhất định. Trong khi đó, nhân lực trong các Sở Ngoại vụ là nhân lực ngành Ngoại giao xuất phát từ cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ. Sở Ngoại vụ TP. Hồ Chí Minh trực thuộc Bộ Ngoại giao do đặc điểm lịch sử và được quy định tại khoản 23 Điều 3 Nghị định số 26/2017/NĐ-CP ngày 14/3/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Ngoại giao. Sở Ngoại vụ các tỉnh, thành địa phương là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban Nhân dân (UBND) cấp tỉnh có chức năng tham mưu, giúp UBND cấp tỉnh quản lý nhà nước về công tác ngoại vụ và công tác biên giới lãnh thổ quốc gia (công tác đối ngoại) của địa phương. Sở Ngoại vụ có đầy đủ các Phòng chức năng và hoạt động như một “Bộ Ngoại giao thu nhỏ” ở địa phương. Các Sở Ngoại vụ thực hiện chế độ báo cáo lên UBND cấp tỉnh và Bộ Ngoại giao. Cục Ngoại vụ thuộc Bộ Ngoại giao là đơn vị phối hợp, hỗ trợ các Sở Ngoại vụ triển khai chính sách và hoạt động đối ngoại ở địa phương.

3.2.3. Phạm vi về nội dung

Luận án tập trung vào 5 bước trong quy trình thực hiện chính sách phát triển nhân lực (PTNL) ngành Ngoại giao gồm xây dựng văn bản và kế hoạch triển khai; phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách; phân công, phối hợp thực hiện; thanh tra, kiểm tra việc thực hiện; và tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách đã nêu và một số kết quả đạt được trong thực hiện các nội dung chính của chính sách PTNL ngành Ngoại giao.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Để giải quyết những nhiệm vụ đặt ra, luận án vận dụng lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển nhân lực ngành Ngoại giao đồng thời vận dụng các khoa học như: Chính sách công, hành chính công, quản trị nhân lực, chính trị học, khoa học quản lý liên quan đến thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao.

Về cách tiếp cận, luận án chọn hướng tiếp cận hệ thống từ góc độ chính sách công dựa trên lý thuyết về phát triển trong mối quan hệ với lý thuyết quản trị nhân lực công. Luận án tiếp cận nghiên cứu dựa trên lý thuyết về phát triển, theo đó phát triển là quá trình tăng trưởng, biến đổi, bao gồm sự thay đổi về lượng và chất, trong đó, sự thay đổi về lượng theo hướng ngày càng tốt hơn về chất trên tất cả các hợp phần của việc thực hiện chính sách trong thực tiễn. Đồng thời, luận án vận dụng cách tiếp cận của lý thuyết quản trị nhân lực trong phân tích, đánh giá các hợp phần của thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao gồm quy hoạch, kế hoạch, thu hút, trọng dụng nhân tài, tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá kết hợp với những đặc thù trong quản trị nhân lực ngành Ngoại giao theo luật pháp quốc tế.

Trong quá trình nghiên cứu, luận án sử dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu. Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp: Luận án tổng hợp, phân tích các nguồn tài liệu trong và ngoài nước về chủ đề nghiên cứu để chọn lọc, kế thừa lý thuyết, kinh nghiệm thực tiễn và xác định các khoảng trống cần nghiên cứu. Các nguồn tài liệu được sử dụng để nghiên cứu gồm: (i) Quan điểm của Đảng về chính sách và thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao; (ii) Văn bản chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển nhân lực ngành Ngoại giao; (iii) Thông tin, tài liệu, số liệu thống kê, báo cáo qua các Hội nghị ngoại giao; số liệu về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của Bộ Ngoại giao, một số Sở Ngoại vụ và cơ quan đại diện; (iv) Các kết quả nghiên cứu đã được công bố. Phương pháp tổng hợp,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/03/2023