Trong Hoạt Động Đối Chất, Nhận Dạng, Nhận Biết Giọng Nói.


trực tiếp hỏi để làm rò. Khi tham gia hỏi cung bị can cùng Điều tra viên, Kiểm sát viên ký vào biên bản hỏi cung.

Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ biên bản hỏi cung do Điều tra viên, Cán bộ điều tra thực hiện. Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên, Cán bộ điều tra cung cấp đầy đủ biên bản hỏi cung, các tài liệu khác đã thu thập được liên quan đến việc hỏi cung bị can; tiến hành phân tích, đối chiếu, so sánh với các tài liệu khác trong hồ sơ để xác định tính có căn cứ, hợp pháp và sự phù hợp của lời khai, bảo đảm mọi tình tiết trong lời khai của bị can đều phải được kiểm tra, xác minh làm rò. Trước khi kết thúc điều tra, Kiểm sát viên phối hợp với Điều tra viên tổng hợp, đánh giá kết quả hỏi cung; tiến hành phúc cung khi thấy cần thiết.

Trong quá trình điều tra vụ án, khi có đề nghị của Cơ quan điều tra hoặc thấy bị can kêu oan, lời khai của bị can trước sau không thống nhất, lúc nhận tội, lúc chối tội, bị can khiếu nại về việc điều tra, có căn cứ để nghi ngờ về tính xác thực trong lời khai bị can hoặc trường hợp bị can bị khởi tố về tội đặc biệt nghiêm trọng thì Kiểm sát viên trực tiếp gặp hỏi cung bị can. Trước khi hỏi cung, Kiểm sát viên phải báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Lãnh đạo đơn vị kiểm sát điều tra để xin ý kiến chỉ đạo và thông báo trước cho Điều tra viên biết. Trường hợp Kiểm sát viên tiến hành hỏi cung thì Biên bản hỏi cung bị can của Kiểm sát viên phải được đưa vào hồ sơ vụ án và sao lưu hồ sơ kiểm sát một bản.

1.2.2.5. Trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói.

Theo quy định tại các Điều 52, Điều 53 Quy chế 111, trong quá trình kiểm sát điều tra, nếu thấy có mâu thuẫn trong lời khai giữa bị can, người bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, hoặc khi cần thiết phải nhận dạng người hay đồ vật, nhận biết giọng nói, Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên tiến hành việc đối chất hoặc nhận dạng, nhận biết


giọng nói; kiểm sát chặt chẽ việc đối chất hoặc nhận dạng, nhận biết giọng nói bảo đảm các hoạt động này được thực hiện theo đúng các quy định tại Điều 189, Điều 190 và Điều 191 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Sau khi nhận được thông báo của Điều tra viên, Kiểm sát viên phải có mặt để trực tiếp kiểm sát việc đối chất, nhận dạng hoặc nhận biết giọng nói. Trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt, phải được sự đồng ý của lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện và thông báo kịp thời cho Điều tra viên để ghi rò trong biên bản đối chất hoặc biên bản nhận dạng. Kiểm sát viên thể trực tiếp hoặc phối hợp cùng Điều tra viên tiến hành việc đối chất. Khi trực tiếp tiến hành đối chất. Kiểm sát viên thông báo trước cho Điều tra viên biết. Việc đối chất và lập biên bản đối chất do Kiểm sát viên tiến hành phải được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 189 Bộ luật tố tụng hình sự. Biên bản đối chất phải được đưa vào hồ sơ vụ án và sao lưu hồ sơ kiểm sát một bản. Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên tiến hành việc nhận dạng, nhận biết giọng nói; nếu Điều tra viên không thực hiện thì Kiểm sát viên báo cáo lãnh đạo đơn vị, lãnh đạo Viện để kiến nghị Cơ quan điều tra khắc phục.

1.2.2.6. Trong hoạt động ghi âm, ghi hình có âm thanh.

Đây là điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về việc ghi âm, ghi hình có âm thanh đối với một số hoạt động quy định tại Điều 146, 183, 188, 189 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 cụ thể:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 90 trang tài liệu này.

Tại khoản 6 Điều 183 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định rò: Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Ngoài ra theo quy định tại các Điều 146, 183, 188, 189 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, hoạt động ghi âm, ghi hình có âm thanh được thực hiện khi hỏi cung bị can tại địa điểm khác theo yêu cầu của bị can hoặc của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; trực tiếp tiếp nhận


Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai - 6

tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của cơ quan, tổ chức, cá nhân; đối chất; lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, đương sự.

Trước đây, việc ghi âm, ghi hình có âm thanh phục vụ điều tra, truy tố, xét xử, tuy nhiên, những file ghi âm, ghi hình này mới chỉ mang giá trị củng cố chứng cứ khi buộc tội đối với bị can, bị cáo.

Hiện nay, quy định bắt buộc phải ghi âm hoặc ghi hình trong hỏi cung bị can không những chỉ bảo đảm quyền con người mà còn tăng cường giám sát hoạt động tố tụng tư pháp, buộc các cơ quan tư pháp phải thận trọng, khách quan, không lạm quyền, từ đó hạn chế oan, sai. Các cuộc hỏi cung được ghi âm, ghi hình có âm thanh là chứng cứ của vụ án, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh hành vi phạm tội, xác định sự thật khách quan của vụ án, góp phần nâng cao trách nhiệm tranh tụng tại phiên tòa.

Có thể nói đây là một bước tiến trong quá trình chứng minh tội phạm. Chính vì thế tháng 11/2019 Quốc hội ban hành Nghị quyết số 96/2019/QH14 trong đó xác định đẩy nhanh tiến độ việc thực hiện ghi âm, ghi hình có âm thanh trong hỏi cung bị can theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Ngày 01/02/2018 liên ngành Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao và Bộ Quốc phòng ban hành Thông tư liên tịch số 03/2018/TTLT – BCA – VKSTC– TANDTC - BQP hướng dẫn về trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Ngày 21/7/2020, viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành quyết định số 264/QĐ-VKSTC quy định Quy trình tạm thời kiểm sát việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh khi hỏi cung bị can, lấy lời khai trong các giai đoạn điều tra.

Kể từ khi Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có hiệu lực Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã tổ chức Hội nghị tập huấn kỹ năng ghi âm, ghi hình có âm thanh trong hỏi cung bị can, ghi lời khai đương sự với sự tham gia giảng


dạy chuyên sâu của Giảng viên khoa Kỹ thuật hình sự Học viện Cảnh sát nhân dân. Tham dự Hội nghị tập huấn là lãnh đạo, Kiểm sát viên Viện kiểm sát hai cấp để cùng trao đổi, thống nhất các nội dung trong quá trình thực hiện hoạt động ghi âm, ghi hình trong hỏi cung phù hợp với các quy định của pháp luật.

1.2.2.7. Trong hoạt động thực nghiệm điều tra.

Theo quy định tại các Điều 52, Điều 53 Quy chế 111: Kiểm sát viên Thực hành quyền công tố, kiểm sát việc thực nghiệm điều tra của Cơ quan điều tra theo phân công của lãnh đạo Viện.

Khi kiểm sát việc thực nghiệm điều tra, Kiểm sát viên phải nghiên cứu nội dung, kế hoạch thực nghiệm điều tra, bảo đảm việc dựng lại hiện trường, diễn lại hành vi, tình huống hoặc tình tiết khác phù hợp với thực tế khách quan, theo đúng quy định tại Điều 204 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Trong trường hợp cần thiết mà Cơ quan điều tra chưa tổ chức thực nghiệm điều tra, thì Kiểm sát viên kịp thời báo cáo, đề xuất lãnh đạo Viện ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành thực nghiệm điều tra. Kiểm sát viên cần yêu cầu Điều tra viên thực nghiệm điều tra đối với những vụ án cần kiểm tra và xác minh những tài liệu, những tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án.

Trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có thể tổ chức thực nghiệm điều tra trong trường hợp đã yêu cầu Cơ quan điều tra thực nghiệm điều tra nhưng Cơ quan điều tra không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ. Việc thực nghiệm điều tra và lập biên bản thực nghiệm điều tra của Viện kiểm sát phải theo đúng quy định tại Điều 204 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và quy định của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

1.2.2.8. Trong hoạt động trưng cầu giám định và việc giám định.

Kiểm sát viên cần chủ động phát hiện các vấn đề cần phải giám định để báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng


uỷ quyền ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành trưng cầu giám định. Kiểm sát viên phải kiểm sát việc trưng cầu giám định của Cơ quan điều tra và việc giám định của người giám định theo đúng quy định tại các Điều 205, 207, 209, 213 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

Kiểm sát viên có quyền tham dự việc giám định đối với những trường hợp phức tạp, nhưng phải báo trước cho người giám định.

Nếu thấy nội dung kết luận giám định chưa rò, chưa đầy đủ hoặc phát sinh những vấn đề mới liên quan đến các tình tiết vụ án đã được kết luận trước đó, thì Kiểm sát viên thụ lý giải quyết vụ án báo cáo Viện trưởng, Phó Viện trưởng hoặc Kiểm sát viên được Viện trưởng uỷ quyền ra văn bản yêu cầu Cơ quan điều tra trưng cầu giám định bổ sung hoặc trực tiếp ra quyết định trưng cầu giám định bổ sung.

Kiểm sát viên phải kiểm sát để đảm bảo việc giám định bổ sung và giám định lại theo đúng quy định tại Điều 201 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

1.2.2.9. Trong hoạt động lập hồ sơ vụ án.

Kiểm sát viên phải kiểm sát chặt chẽ việc lập hồ sơ vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác của Điều tra viên, bảo đảm từng trang tài liệu trong hồ sơ bắt khẩn cấp, hồ sơ khởi tố vụ án, hồ sơ khởi tố bị can và các hồ sơ khác trong quá trình điều tra phải được đánh dấu bút lục của Cơ quan điều tra và kèm theo bảng kê đầy đủ tên tài liệu, số trang từng tài liệu và lưu trong hồ sơ vụ án. Trong quá trình khởi tố, điều tra, tài liệu của Cơ quan điều tra hoặc của Viện kiểm sát thu thập đều phải được đưa vào hồ sơ vụ án theo đúng trình tự tố tụng hình sự như khởi tố, điều tra vụ án. Sau khi kết thúc điều tra, các tài liệu trong hồ sơ do Cơ quan điều tra thống nhất đánh số thứ tự một lần và lập bảng thống kê đầy đủ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án từ 01 cho đến hết.


Kiểm sát viên phải thực hiện một số yêu cầu sau khi kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của Điều tra viên:

Trong quá trình kiểm sát việc thiết lập các tài liệu, thu thập chứng cứ của Điều tra viên thông qua việc kiểm sát nội dung và hình thức của các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì cần chú ý đến nội dung các biên bản được lập trong các hoạt động tố tụng… đảm bảo các tài liệu này phải được thiết lập theo đúng trình tự của quy định Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và đảm bảo tính chặt chẽ về nội dung.

Kiểm sát viên phải yêu cầu Điều tra viên cung cấp đầy đủ tài liệu khi xem xét phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra theo đúng quy định các tài liệu trong hồ sơ xét phê chuẩn lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp; hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và phê chuẩn lệnh tạm giam trong trường hợp người đang bị tạm giữ bị khởi tố bị can; hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can …

Khi Kiểm sát viên tiến hành một số hoạt động điều tra ngay trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự như: Hỏi cung bị can, ghi lời khai người làm chứng, đối chất, thực nghiệm điều tra... Những hoạt động này là một biện pháp nhằm kiểm sát quá trình lập hồ sơ của Điều tra viên, thẩm định lại các tài liệu đã được thu thập trong hồ sơ vụ án. Đối với các tài liệu do Kiểm sát viên thu thập trong quá trình xét phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra như: Biên bản ghi lời khai người tạm giữ, biên bản hỏi cung bị can… phải được chuyển cho Cơ quan điều tra để đưa vào hồ sơ vụ án. Việc chuyển giao này phải được lập thành biên bản ghi rò tên tài liệu, số trang tài liệu.

Khi kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của Điều tra viên còn cần phải kiểm sát việc tuân thủ các thủ tục tố tụng của các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án: Kiểm sát nội dung các quyết định tố tụng như: Quyết định khởi tố vụ án,


khởi tố bị can; quyết định phục hồi điều tra vụ án, bị can, quyết định tạm giữ và lệnh tạm giam… đảm bảo cho các quyết định này được thiết lập đúng theo các quy định của tố tụng hình sự; đúng mẫu ban hành của Bộ Công an; do người có thẩm quyền ra quyết định; đủ căn cứ ban hành quyết định; thể hiện rò nội dung hành vi; điều khoản áp dụng, thậm chí cả con dấu, chữ ký, dấu chức danh cũng phải đảm bảo đúng quy định của tố tụng.

Trường hợp cần gia hạn điều tra theo đề nghị của Cơ quan điều tra, Kiểm sát viên phải kiểm tra các căn cứ để gia hạn điều tra và báo cáo lãnh đạo Viện xem xét, quyết định gia hạn thời hạn điều tra.


Kết luận Chương 1

Với các nội dung trình bày trong Chương 1, Tác giả phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác như khái niệm, vị trí, vai trò, ý nghĩa, quy định của pháp luật hình sự và tố tụng hình sự về Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra đối với vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác của Viện kiểm sát nhân dân. Ngoài ra, tác giả cũng phân tích rò những nội dung thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác.


Chương 2

THỰC TIỄN THI HÀNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA

NGƯỜI KHÁC TẠI HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI


2.1. Kết quả, tình hình thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai.

2.1.1. Tình hình thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom.

Trong những năm qua với tinh thần trách nhiệm của ban lãnh đạo Viện kiểm sát, sự nỗ lực không ngừng của đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, chuyên viên thuộc Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom đối với công tác thực hành quyền công tố đã thực hiện tốt, hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch công tác hành năm và các chỉ tiêu của Quốc hội đề ra. Trong lĩnh vực thực hành quyền công tố, kiểm sát giải quyết tin báo, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom đã thực hiện tốt việc thực hành quyền công tố, kiểm sát chặt chẽ các hoạt động tư pháp trong suốt quá trình tố tụng; không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.

Căn cứ vào báo cáo tổng kết năm của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom từ năm 2015 đến năm 2019, thể hiện về tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Trảng Bom, nhận thấy các tội phạm được thực hiện có xu hướng tăng cả về số lượng vụ án, bị can. Tuy nhiên việc tăng số lượng chỉ thể hiện ở một số loại tội phạm như xâm phạm sở hữu, ma túy, trật tự xã hội, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Cụ thể, tổng số vụ án hình sự đã khởi tố, điều tra trên địa bàn huyện Trảng Bom trong 05

Xem tất cả 90 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí