hay không được” chứ chưa nghĩ đến khía cạnh “nên hay không nên” . Để đảm bảo cho sự phát triển bền vững, chính phủ cần đưa ra một kế hoạch phát triển kinh tế dài hạn với những mục tiêu rõ ràng. Việc này sẽ giúp các cơ quan chức năng có cơ sở thống nhất để làm căn cứ xét duyệt dự án, tránh hiện tượng cấp phép tràn lan để lại hậu quả cho nền kinh tế. Đồng thời, khi các nhà đầu tư nắm bắt được chiến lược phát triển dài hạn của ta, họ cũng sẽ cảm thấy yên tâm để xây dựng chiến lược kinh doanh lâu dài. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nhà đầu tư Nhật Bản bởi họ là những người có truyền thống làm việc theo kế hoạch định trước và thường có xu hướng làm ăn lâu bền.
Ngoài ra, chúng ta nên tập trung thu hút FDI vào những ngành dịch vụ mang tính “lan tỏa bền vững” như giáo dục - đào tạo, tài chính - ngân hàng, khoa học – công nghệ. Những ngành này không chỉ tạo ra lợi nhuận cho bản thân nó mà còn mang lại giá trị gia tăng cho toàn bộ nền kinh tế trong dài hạn.
3.2.3. Tiếp tục hoàn thiện cơ sở hạ tầng
Theo các chuyên gia Nhật Bản thì sở dĩ dòng vốn đầu tư nước ngoài của Nhật Bản vào Việt Nam nói chung và vào ngành Công nghiệp Dịch vụ ở Việt Nam nói riêng chưa cao sở dĩ là do điều kiện cơ sở hạ tầng của Việt Nam còn yếu kém. Vì vậy, cải thiện cơ sở hạ tầng có thể được coi là một trong những nhóm biện pháp chính thúc đẩy thu hút FDI của Nhật Bản trong những năm tới, bao gồm:
- Tiến hành tổng rà soát, điều chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư và phát triển kết cấu hạ tầng đặc biệt là nguồn vốn ODA; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường. Triển khai thực hiện có hiệu quả việc khuyến khích tư nhân đầu tư xây dựng kết cấu hạ tâng với chính sách ưu đãi để khai thác, sử dụng hiệu quả các dự án đã hoàn thành.
- Điện sử dụng đang là một vấn đề bức xúc được các nhà đầu tư quan tâm và lo ngại khi đầu tư vào Việt Nam, do đó trong thời gian tới, Nhà nước cần có những biện pháp cụ thể như: giảm bù chéo đối với với giá điện sản xuất và các nhóm khách hàng khác nhằm có giá điện sản xuất cạnh tranh với các nước trong khu vực. Tiếp tục nỗ lực thực hiện cung cấp điện có chất lượng và ổn định cho người sử dụng điện, để làm được điều đó nhà nước phải tiến hành xây dựng các nhà máy điện theo đúng lộ trình của quy hoạch tổng thể.
- Cải thiện hạ tầng viễn thông: Giảm giá cước viễn thông quốc tế (bao gồm phí điện thoại quốc tế, phí dịch vụ thuê đường truyền quốc tế) bằng cách đẩy mạnh hiệu quả sản xuất, giảm giá dịch vụ cho các doanh nghiệp tham gia vào thị trường. Bên cạnh đó, hỗ trợ các nhà cung cấp Internet nâng cao năng lực để đảm bảo an ninh, độ tin cậy và hiệu quả của mạng.
Có thể bạn quan tâm!
- Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào công nghiệp dịch vụ ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 7
- Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào công nghiệp dịch vụ ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 8
- Cơ Hội Và Thách Thức Đối Với Thu Hút Fdi Của Nhật Bản Vào Ngành Công Nghiệp Dịch Vụ Ở Việt Nam
- Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào công nghiệp dịch vụ ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp - 11
Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.
- Nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng nông thôn, rút ngắn khoảng cách nông thôn – thành thị nhằm mục đích thu hút một phần FDI vào các ngành dịch vụ ở ngoài các thành phố lớn, giảm các ảnh hưởng tiêu cực của đô thị hóa và tập trung lao động.
3.2.4. Phát triển nguồn nhân lực có chất lượng
Do đặc điểm của ngành Công nghiệp Dịch vụ là tạo ra dịch vụ – sản phẩm có hàm lượng tri thức và công nghệ cao nên đòi hỏi phải có đội ngũ người lao động được đào tạo, có trình độ về chuyên môn và kỹ năng tiếp thu, vận dụng những kỹ năng và công nghệ mới. Ngày nay, cạnh tranh về lực lượng lao động dồi dào, giá rẻ không phải là vấn đề mang tính cốt lõi, mà trên hết đó là hiệu quả mà lực lượng lao động đó có thể mang lại. Nguồn nhân lực được đề cập tới ở đây đặc biệt nhấn mạnh tới đội ngũ quản lý trung gian, những người trực tiếp làm việc với đội ngũ quản lý người Nhật và lực lượng
công nhân, kỹ sư Việt Nam. Với những hạn chế đã phân tích ở phần trước, trong những năm tới đây, khâu đào tạo nguồn nhân lực cần chú ý tới những điểm sau:
- Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề, các trung tâm đào tạo dưới nhiều hình thức (như đào tạo từ xa) và từ nhiều nguồn vốn khác nhau.
- Các doanh nghiệp Nhật Bản thường có những luật lệ, quy định rất khắt khe với người lao động vì vậy, bên cạnh đào tạo chuyên môn chúng ta cũng cần nâng cao hiểu biết, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc.
- Về công nghệ thông tin, một số năm gần đây, các cơ quan chính phủ trung ương và chính quyền địa phương đã nối mạng, các doanh nghiệp tư nhân cũng đang tích cực áp dụng thương mại điện tử. Ngoài ra, Việt Nam đang tập trung phát triển ngành phần mềm vì vậy việc phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghệ thông tin trở nên vô cùng quan trọng. Để đạt được điều đó cần tiếp tục công tác đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực để đáp ứng cho nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới, kể cả cán bộ quản lý các cấp và cán bộ kỹ thuật bằng cách mở cửa thị trường đào tạo nghề cho đầu tư nước ngoài. Chú ý bồi dưỡng, phát triển đội ngũ lao động chất xám, khuyến khích việc nghiên cứu khoa học và có biện pháp để bảo vệ kết quả các công trình nghiên cứu, sáng chế, giải pháp hữu ích.
- Đẩy nhanh việc nghiên cứu một mặt bằng lương tối thiểu trong các loại hình doanh nghiệp, không phân biệt doanh nghiệp đầu tư nước ngoài hay
doanh nghiệp trong nước. Tiếp tục thực hiện các giải pháp nhằm hạn chế và ngăn chặn đình công bất hợp pháp.
- Tăng cường mở rộng các trường và trung tâm dạy ngoại ngữ tiếng Nhật nhằm phát triển đội ngũ lao động biết tiếng Nhật. Đồng thời với giảng dạy ngoại ngữ cần tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giao lưu giúp văn hóa Nhật Bản trở nên không quá xa lạ với người Việt Nam, tạo cơ sở thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh và hợp tác với Nhật Bản.
3.2.5. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách
Với tình trạng cải cách, sửa đổi hàng loạt nhưng hệ thống pháp luật vẫn tỏ ra yếu kém thì việc hoàn thiện hệ thống luật pháp vẫn luôn là một nhu cầu bức thiết. Nói là thế nhưng cải cách luật pháp là nhiệm vụ muôn thuở của mọi thời đại. ở thời điểm hiện tại và trong phạm vi liên quan tới FDI của Nhật vào ngành Công nghiệp Dịch vụ thì có 2 vấn đề nổi trội cần được tiến hành càng nhanh càng tốt, đó là: tăng cường cơ sở pháp lý cho hoạt động mua lại và sáp nhập (M&A) các dự án FDI Công nghiệp Dịch vụ và nhanh chóng ban hành những văn bản hướng dẫn thực hiện các cam kết quốc tế mà nội dung của nó có độ “vênh” với các quy định hiện hành.
Về vấn đề mua bán và sáp nhập, trước khi có luật đầu tư thống nhất năm 2005, Việt Nam chưa có một quy định nào điều chỉnh hoạt động này. Nói như vậy không có nghĩa là hiện nay đã có khung pháp lý chặt chẽ cho vấn đề M&A. Chỉ có điều, theo luật đầu tư 2005 thì M&A được coi là một hoạt động thuộc đầu tư trực tiếp. Hiện nay hoạt động mua lại và sáp nhập ở Việt Nam chưa thực sự phổ biến và còn im lìm vô cùng so với sự sôi động của nó đang diễn ra trên thế giới. Có tới 60% các vụ mua lại và sáp nhập trên thế giới là thuộc ngành Công nghiệp Dịch vụ 18. Đây là một hình thức thâm nhập được các nhà đầu tư lĩnh vực Công nghiệp Dịch vụ trên thế giới ưa chuộng bởi thay
18 Global trends: sustained growth in FDI flow http://www.rrojasdatabank.info/wir2007/wir07ch1.pdf
vì phải bỏ ra một khoản vốn lớn đầu tư mới hoàn toàn thì nhà đầu tư nước ngoài sẽ thuận lợi hơn nhiều nếu nắm quyền quản lý những doanh nghiệp đã và đang tồn tại. Tuy nhiên, ở Việt Nam, khung pháp lý còn hạn chế, nhất là việc định giá tài sản, xác định nghĩa vụ thuế, chính sách đối với lao động, khách hàng… nên các nhà đầu tư nước ngoài hầu như chỉ dám đứng ngoài nhìn. Nếu bỏ qua kênh đầu tư này thì chúng ta sẽ tuột mất rất nhiều cơ hội thu hút FDI vào ngành Công nghiệp Dịch vụ trong thời gian tới.
(Nguồn: UNCTAD http://www.unctad.org/Templates/StartPage.asp?intItemID=2068 )
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các dự án mua lại và sáp nhập, cần tiếp tục cải tiến các thủ tục và quy trình mua bán, sáp nhập. Đồng thời cũng cần phải nâng cao vai trò quản lý của nhà nước đối với hoạt động này nhằm hạn chế các trường hợp sử dụng M&A như một chiêu bài để gây thiệt hại cho phía
Việt Nam (chấp nhận thua lỗ ban đầu để rồi sau đó chính phía Việt Nam phải bán lại cổ phần của mình cho đối tác nước ngoài, như vậy từ hình thức liên doanh chuyển sang doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài).
Về vấn đề thực hiện các cam kết quốc tế, hiện nay chúng ta đang gặp phải một số rắc rối khi nội dung của các cam kết quốc tế, cam kết song phương không thống nhất, thậm chí mâu thuẫn nhau và mâu thuẫn với các quy định của pháp luật hiện hành. Ví dụ như theo cam kết WTO thì lĩnh vực giáo dục sẽ được mở cửa sau 2-3 năm, lĩnh vực y tế sau 3-5 năm nhưng theo Hiệp định bảo hộ đầu tư ký với Nhật Bản thì các lĩnh vực này đã được mở cửa từ lâu. Vấn đề nảy sinh ở chỗ, khi xét duyệt các dự án đầu tư, các cơ quan chức năng lại có những cách hiểu và thi hành không thống nhất hoặc có những khi không biết làm thế nào thì từ chối dự án của nhà đầu tư với lý do “an toàn”!! Điều này gây ảnh hưởng vô cùng lớn đến uy tín của Việt Nam với các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và các nhà đầu tư Nhật Bản nói riêng. Chính bởi vậy, cần có những văn bản hướng dẫn việc thi hành cam kết một cách cụ thể để đảm bảo sự thống nhất, công bằng giữa các nhà đầu tư mà vẫn không vi phạm cam kết.
Ngoài ra, để tránh tình trạng như trên, các cơ quan chức năng cần có một cơ chế trao đổi và thông qua hợp lý trước khi đàm phán, ký kết các hiệp ước, cam kết quốc tế để đảm bảo sự thống nhất giữa các cam kết. Đồng thời chúng ta cũng nên chủ động soạn thảo một mẫu Hiệp định bảo hộ đầu tư với các nước để có thể tiến hành đàm phán chủ động, thay vì luôn để bên đối tác đề xuất như hiện nay.
3.2.6. Nâng cao vai trò và năng lực của bộ máy quản lý nhà nước
Đối với doanh nghiệp FDI, bộ máy quản lý nhà nước vốn có vai trò hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện đầu tư và giúp doanh nghiệp hoàn thành các nghĩa vụ đối với nước sở tại. Tuy nhiên bộ máy đó của chúng ta hiện nay do năng lực yếu kém đang làm việc kém hiệu quả với những quy trình, thủ tục rườm rà không những không giúp hoạt động đầu tư của doanh nghiệp được thuận lợi hơn mà còn có xu hướng gây phiền toái cho doanh nghiệp. Chính vì vậy, để hoạt động đầu tư ở Việt Nam trở nên có sức hút hơn thì việc cải tổ bộ máy này là vô cùng quan trọng.
Hải quan: Có nhiều vấn đề được chỉ ra liên quan đến tính minh bạch và độ tin cậy của nghiệp vụ hải quan. Hải quan Việt Nam đang đứng trước yêu cầu đơn giản hóa và đồng bộ hoá qui trình thủ tục hải quan. Nói chung quá trình đơn giản hoá thủ tục hải quan đã có những bước tiến đáng kể nhưng vẫn còn rất nhiều thủ tục xuất nhập khẩu rườm rà, phức tạp liên quan đến nhiều cơ quan hành chính cần phải được cải tiến kịp thời. Để thúc đẩy quá trình cải thiện những vấn đề trên cần củng cố chức năng về mặt tổ chức của hải quan và nâng cao năng lực cán bộ.
Thuế: Với những nổ lực của Chính phủ Việt Nam, cơ quan thuế đã có những bước cải thiện đáng kể. Tuy nhiên vẫn còn tồn đọng một số vấn đề cần cải thiện như rút ngắn thời gian làm thủ tục về thuế, rút ngắn thời gian hoàn thuế, áp dụng chặt chẽ các điều khoản pháp luật về thuế, xóa bỏ sự chồng chéo trong các qui định về thuế, xoá bỏ cơ chế kiểm tra thuế thường xuyên đối với doanh nghiệp. Củng cố chức năng của cơ quan thuế vụ và nâng cao năng lực cán bộ là những yếu tố không thể thiếu trong việc giải quyết triệt để các vấn đề nêu trên.
Bên cạnh đó tham nhũng là mộ căn bệnh nguy hiểm mà cho đến nay Việt Nam vẫn chư thể chữa khỏi, nó ảnh hưởng rất nhiều đến lòng tin của các
nhà đầu tư. Kẻ hở luật pháp và chính sách đã để cho người ta tham nhũng, nó là căn bệnh tồn tại trong bất kỳ nền tài chính nào, chúng ta không thể xoá bỏ nó mà chỉ có thể bằng cách nào đó hạn chế nó mà thôi. Do đó, Chính phủ Việt Nam cần thực hiện các biện pháp sau nhằm đấu tranh chống nạn tham nhũng:
- Tiếp tục xây dựng kế hoạch hành động và các biện pháp đầu tranh chống tham nhũng
- Củng cố chức năng đường dây nóng giữa chính phủ và doanh nghiệp
- Nhà nước cho phép báo chí và các phương tiên truyền thông đưa tin về tham nhũng, để người ta luôn phải lo ngại bị vạch trần, đó là cách hiệu quả để hạn chế tham nhũng.
- Ngoài ra tăng lương cho bộ máy công chức nhà nước cũng là một biện pháp tốt để chống tham nhũng, người ta sẽ sợ bị mất việc làm và họ có thể sồng bằng đồng lương của mình.
Các cơ quan liên quan trực tiếp tới đầu tư: từng bước hình thành một đội ngũ tinh thông nghiệp vụ đầu tư quốc tế, am hiểu kinh tế thị trường và tập quán, thông lệ quốc tế. Để làm được việc này, ngoài việc tăng thêm nguồn nhân lực, đối với lớp cán bộ công nhân viên chưa hoặc không đủ tiêu chuẩn, phải vừa đào tạo lại (nếu còn trẻ) vừa mạnh dạn thuyên chuyển công tác sang những vị trí phù hợp hơn. Ở nước ta hiện nay, nguồn nhân lực đạt các yêu cầu về chuyên môn nghiệp vụ không phải là thiếu nhưng có lẽ là chưa được dùng đúng chỗ.
Bộ máy quản lý dự án: chúng ta cũng cần quản lý chặt chẽ hơn việc thực hiện dự án của các nhà đầu tư nước ngoài. Chính phủ có thể lập một cơ quan riêng biệt nhằm theo dõi triển khai các dự án FDI, tiếp nhận các khiếu nại, phàn nàn về những cơ quan chức năng không thi hành đúng luật hoặc làm sai các quy định cho phép. Cơ quan này phải kịp thời phát hiện vấn đề và giải quyết ngay những vướng mắc trong quá trình triển khai các dự án FDI. Việc