Thu hút FDI vào các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương - 2

4. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận

Việc nghiên cứu đề tài khóa luận được dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: Việc nghiên cứu thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương được thực hiện đồng bộ, gắn với hoàn cảnh, điều kiện và các giai đoạn cụ thể. Các giải pháp nhằm phát triển bền vững FDI được xem xét trong mối liên hệ chặt chẽ với nhau cả về không gian và thời gian, đồng thời được đặt ra trong bối cảnh chung của toàn bộ nền kinh tế cũng như của riêng Hải Dương.

- Phương pháp nghiên cứu cụ thể

+ Phương pháp thống kê: Khóa luận sử dụng các số liệu thống kê thích hợp để phục vụ cho quá trình phân tích thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Dương và dự báo xu hướng sắp tới trên cơ sở đó rút ra các bài học kinh nghiệm, các giải pháp nhằm phát triển bền vững và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn FDI phù hợp với điều kiện, tình hình giai đoạn tới.

+ Phương pháp phân tích tổng hợp: Dựa trên cơ sở phân tích tình hình thực tế, đánh giá toàn diện trong mối liên kết ảnh hưởng giữa FDI và các thành phần kinh tế khác trên địa bàn tỉnh Hải Dương để đưa ra các đánh giá chung vừa khái quát vừa thực tế về ưu điểm và những hạn chế bất cập của hoạt động đầu tư nước ngoài tại Hải Dương.

+ Phương pháp so sánh, đối chiếu: Từ kết quả nghiên cứu nhận được từ các phương pháp trên, phương pháp so sánh đối chiếu sẽ được sử dụng để so sánh, đối chiếu với các số liệu thống kê của cả nước và một số tỉnh thành có các đặc điểm tương đồng với Hải Dương nhằm xác định rõ kết quả FDI Hải Dương đã thu hút được.

5. Kết cấu khóa luận tốt nghiệp

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục bảng, hình, danh mục từ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài khóa luận được kết cấu 3 chương, cụ thể:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về thu hút FDI vào các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 77 trang tài liệu này.

Chương 2: Phân tích và đánh giá thực trạng thu hút FDI vào các khu công nghiệp tỉnh Hải Dương.

Chương 3: Định hướng và giải pháp thu hút FDI vào các khu công nghiệp tỉnh Hải Dương giai đoạn đến 2025 và những năm tiếp theo.

Thu hút FDI vào các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương - 2

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ THU HÚT FDI VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

1.1 MỘT SỐ KHÁI NIỆM

1.1.1 FDI

a. Khái niệm

FDI là viết tắt của từ Foreign Direct Investment tức đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những kênh đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về FDI. FDI xuất hiện khi một nhà đầu tư nước ngoài mua tài sản có ở một nước khác với ý định quản lý nó. Quyền kiểm soát (control – tham gia vào việc đưa ra các quyết định quan trọng liên quan đến chiến lược và các chính sách phát triển của công ty) là tiêu chí cơ bản giúp phân biệt FDI và đầu tư chứng khoán.

Theo các chuẩn mực của Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) và Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), FDI được định nghĩa bằng một khái niệm rộng hơn.

Theo IMF: FDI nhằm đạt được những lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý thực sự doah nghiệp.

Theo OECD: Đầu tư trực tiếp được thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doah nghiệp đặc biệt là những khoản đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý doanh nghiệp nói trên bằng cách: (i) Thành lập hoặc mở rộng một doanh nghiệp hoặc một chi nhánh thuộc toàn quyền quản lý của chủ đầu tư; (ii) Mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có; (iii) Tham gia vào một doanh nghiệp; (iv) Cấp tín dụng dài hạn (> 5 năm).

Hai định nghĩa trên nhấn mạnh đến mục tiêu thực hiện các lợi ích dài hạn của một chủ thể cư trú tại một nước, được gọi là nhà đầu tư trực tiếp thông qua một chủ thể khác cư trú ở một nước khác, gọi là doanh nghiệp nhận đầu tư trực tiếp. Mục tiêu lợi ích dài hạn đòi hỏi phải có một quan hệ lâu dài giữa nhà đầu tư trực tiếp và doanh nghiệp nhận đầu tư trực tiếp, đồng thời nhà đầu tư có một mức độ ảnh hưởng đáng kể đối với việc quản lý doanh nghiệp này

Khái niệm của WTO: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có một tài sản ở nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền kiểm soát tài sản đó. Quyền kiểm soát là dấu hiệu để phân biệt FDI với các hoạt động đầu tư khác.

Luật đầu tư năm 2005 tại Việt Nam có đưa ra khái niệm “đầu tư”, “đầu tư trực tiếp”, “đầu tư nước ngoài” nhưng không đưa ra khái niệm “đầu tư trực tiếp nước ngoài”. Tuy nhiên từ các khái niệm này có thể hiểu: “FDI là hình thức đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư và tham gia kiểm soát hoạt động đầu tư ở Việt Nam hoặc nhà đầu tư

Việt Nam bỏ vốn đầu tư và tham gia kiểm soát hoạt động đầu tư ở nước ngài theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”.

Tóm lại có thể hiểu: FDI là một hình thức đầu tư quốc tế trong đó chủ đầu tư của một nước đầu tư toàn bộ hay phàn đủ lớn vốn đầu tư cho một dự án ở nước khác nhằm giành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát dự án.

b. Đặc điểm

Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài không chỉ gắn liền với việc di chuyển vốn đầu tư, tức là tiền và các loại tài sản khác giữa các quốc gi, hệ quả là làm tăng lượng tiền và tài sản của nền kinh tế nước tiếp nhận đầu tư và làm giảm lượng tiền và tài sản nước đi đầu tư mà còn gắn liền với chuyển giao công nghệ, chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm quản lý và tạo ra thị trường mới cho cả phía đầu tư và phía nhận đầu tư.

Các chủ đầu tư góp một lượng vốn tối thiểu tùy theo quy định của mỗi nước nhận đầu tư để họ có quyền trực tiếp tham gia điều phối, quản lý quá trình sản xuất – kinh doanh.

Thứ hai, được tiến hành thông qua việc bỏ vốn thành lập các doanh nghiệp mới (liên doanh hoặc sở hữu 100% vốn), hợp đồng hợp tác kinh doanh, mua lại các chi nhánh hoặc doanh nghiệp hiện có, mua cổ phiếu ở mức khống chế hoặc tiến hành các hoạt động hợp nhất và chuyển nhượng doanh nghiệp.

Thứ ba, nhà đầu tư là người sở hữu hoàn toàn vốn đầu tư hoặc cùng sở hữu vốn đầu tư với một tỷ lệ nhất định đủ mức tham gia quản lý trực tiếp hoạt động của doanh nghiệp.

Thứ tư, là hoạt động đầu tư của tư nhân, chịu sự điều tiết của các quan hệ thị trường trên quy mô toàn cầu, ít bị ảnh hưởng của các mối quan hệ chính trị giữa các nước, các chính phủ và mục tiêu cơ bản luôn là đạt lợi nhuận cao.

Thứ năm, nhà đầu tư trực tiếp kiểm soát và điều hành quá trình vận động của dòng vốn đầu tư.

Thứ sáu, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm hoạt động đầu tư từ nước ngoài vào trong nước và đầu tư trong nước ra nước ngoài, do vậy bao gồm cả vốn di chuyển vào một nước và dòng vốn di chuyển ra khỏi nền kinh tế của nước đó.

Thứ bảy, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài gắn với hoạt động kinh doanh quốc tế của các công ty xuyên quốc gia.

c. Phân loại

- Theo phương thức đầu tư

+ Đầu tư mới: là việc nhà đầu tư nước ngoài dùng vốn để đầu tư về cơ sở vật chất, nhà xưởng máy móc… nhằm mục đích kinh doanh thu lợi nhuận.

+ Mua lại và sáp nhập:

Sáp nhập: là hoạt động trong đó tài sản và hoạt động của hai công ty kết hợp lại để thành lập nên một thực thể mới

Mua lại: là giao dịch trong đó quyền sở hữu, quyền kiểm soát tài sản và hoạt động của công ty được chuyển từ công ty bị mua sang công ty đi mua và công ty bị mua thành chi nhánh của công ty đi mua

Nhìn chung hoạt động mua lại và sáp nhập tọa cho các công ty cơ hội mở rộng nhanh chóng các hoạt động của mình ra thị trường nước ngoài. Thông qua con đường mua lại và sáp nhập, các công ty có thể giảm chi phí trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triển, sản xuất, phân phối và lưu thông. Hình thức mua lại và sáp nhập tạo điều kiện thuận lợi cho việc tái cấu trúc các ngành công nghiệp và cơ cấu ngành công nghiệp ở các quốc gia, do đó hình thức này đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển công nghiệp ở các quốc gia.

- Theo hình thức đầu tư

Các hình thức thu hút FDI của một quốc gia do luật pháp từng nước quy định, cụ thể theo Luật thương mại Việt Nam có 3 hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau:

+ Hình thức doanh nghiệp liên doanh

Doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài (gọi tắt là liên doanh) là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doannh ký giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Trong trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp liên doanh có thể được thành lập trên cơ sở hiệp định ký giữa chính phủ Việt Nam với chính phủ nước ngoài.

Xét trên phương diện kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh có những đặc trưng chủ yếu là các bên liên doanh cùng góp vốn, cùng quản lý, cùng phân phối lợi nhuận và chia sẻ rủi ro.

Về mặt pháp lý: doanh nghiệp liên doanh là một thự thể pháp lý độc lập hoạt động theo pháp luật của nước sở tại. Doanh nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân. Mỗi bên tham gia liên doanh vừa có tư cách pháp lý riêng – chịu trách nhiệm pháp lý với bên kia và tư cách pháp lý chung – chịu trách nhiệm với toàn thể liên doanh.

+ Hình thức doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài

Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đàu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và chịu trách nhiệm về hiệu quả kinh doanh.

Sự ra đời của hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đánh dấu bước phát triển cao của mối quan hệ kinh tế quốc tế. Các thực thể kinh doanh được thành lập không chỉ dựa trên sự khác biệt về các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, pháp luật... mà còn dựa trên sự hiểu biết sâu sắc về môi trường và khả năng kinh doanh khi thành lập.

Do có những lợi thế nhất định, việc sử dụng hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trở thành một giải pháp có triển vọng trong đầu tư quốc tế và hình thức này đang không ngừng được mở rộng và phát triển.

+ Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh

Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức đầu tư trong đó các bên quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư, kinh doanh mà không thành lập pháp nhân mới.

Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa đại diện có thẩm quyền của các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh và hoàn toàn khác với hợp đồng thương mại, hợp đồng giao nguyên liệu lấy sản phẩm và những hợp đồng khác ở chỗ nó phải quy định rõ việc thực hiện phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên.

Ngoài 3 hình thức phổ biến trên. Còn có một số hình thức khác như doanh nghiệp cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh của các công ty nước ngoài, hoặc công ty con ở nước ngoài... Bên cạnh đó còn các phương thức tổ chức đầu tư khác như khu chế xuất, hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao, và các dạng tương tự như hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh, hợp đồng xây dựng - chuyển giao. Việc phân loại các hình thức này chủ yếu căn cứ theo hình thức pháp lý của chúng.

1.1.2 Khu công nghiệp

a. Khái niệm

Theo Nghị định số 192/CP ngày 28/12/1994 của Chính phủ về ban hành quy chế Khu công nghiệp, Khu công nghiệp quy định ttrong Quy chế này là Khu công nghiệp tập trung do Chính phủ quyết định thành lập, có ranh giới địa lý xác định. Chuyên sản xuất công nghiệp và thực hiện các dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp, không có dân cư sinh sống. Trong Khu công nghiệp có các loại doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đồng thời, trong Khu công nghiệp có thể có Khu chế xuất, Xí nghiệp chế xuất.

Theo Nghị định số 36/CP ngày 24/1/1997 của Chính phủ về ban hành Quy chế Khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp. Khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong Khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất.

Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/11/2005 và Luật đầu tư số 67/2014/QH13 được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 26/22/2014 định nghĩa về Khu công nghiệp như sau:

Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ (Tại Điều 3)

Trong Khu công nghiệp được chia thành doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và doanh nghiệp dịch vụ cho nhành sản xuất công nghiệp. Các lĩnh vực được đầu tư trong Khu công nghiệp bao gồm: xây dựng và kinh doanh các công trình cơ sở hạ tầng, sản xuất, gia công lắp ráp các sản phẩm công nghiệp để sản xuất và tiêu thụ tại thị trường trong nước, xuất khẩu ra nước ngoài, phát triển kinh doanh sáng chế, quy trình công nghệ.

b. Đặc điểm

+ Về mặt pháp lý: các khu công nghiệp là phần lãnh thổ của nước sở tại, các doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp của Việt Nam chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam như: luật đầu tư nước ngoài, luật lao động, quy chế về khu công nghiệp và khu chế xuất…

+ Về mặt kinh tế: khu công nghiệp là nơi tập trung nguồn lực để phát triển công nghiệp, các nguồn lực của nước sở tại, của nhà đầu tư trong và ngoài nước tập trung vào một khu vực địa lý xác định, các nguồn lực này đóng góp vào phát triển cơ cấu, nhưng ngành mới được sở tại ưu tiên, cho phép đầu tư. Bên cạnh đó, thủ tục hành chính đơn giản, có các ưu đãi về tài chính, an ninh, an toàn xã hội tốt tại đây thuận lợi cho việc sản xuất - kinh doanh hàng hóa hơn các khu vực khác. Mục tiêu của nước sở tại khi xây dựng khu công nghiệp là thu hút vốn đầu tư với quy mô lớn, thúc đẩy xuất khẩu tạo việc làm, phát triển cơ sơ hạ tầng, chuyển giao công nghệ kiểm soát ô nhiễm môi trường.

c. Phân loại khu công nghiệp

Các Khu công nghiệp có thể được phân loại dựa trên những căn cứ khác nhau, tùy theo mục đích của việc phân loại.

- Căn cứ theo chủ thể đầu tư, các Khu công nghiệp có thể được chia thành hai loại:

Thứ nhất, các Khu công nghiệp do Nhà nước đầu tư. Đó là những KCN do chính quyền các địa phương thực hiện đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách địa phương nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất công nghiệp. Loại KCN này thường được xây dựng ở những địa phương có điều kiện kinh tế và phát triển công nghiệp khó khăn.

Khi Nhà nước đầu tư KCN, thường thành lập ra một công ty hạ tầng trực thuộc Ban quản lý các KCN của tỉnh để đầu tư và điều hành KCN. Ngoài việc đầu tư xây dựng, vận hành KCN, các chủ đầu tư trực tiếp tham gia cung cấp một số dịch vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp thứ cấp, ví dụ: các dịch vụ hành chính, xử lý môi trường, cung cấp thông tin, giới thiệu chính sách kinh tế, xúc tiến thư ng mại, giới thiệu việc làm, tuyển dụng lao động,… Tuy nhiên, các dịch vụ này chỉ mang tính căn bản, trong khi để KCN hoạt động

tốt, hiệu quả và bền vững thì phải cần đến nhiều loại dịch vụ khác nữa, mà bản thân các Ban quản lý KCN không đáp ứng được.

Thứ hai, các KCN do khu vực tư nhân đầu tư. Những KCN do các chủ đầu tư tư nhân đảm nhận quá trình đầu tư xây dựng và vận hành KCN. Các KCN loại này hiện là phổ biến ở những địa phương có kinh tế phát triển.

Trong trường hợp này, ngoài các hạng mục chính, các chủ đầu tư có thể cung cấp một số dịch vụ hỗ trợ như: tư vấn đầu tư, tư vấn xây dựng, kho vận, môi trường. Đối với các dịch vụ khác, chủ đầu tư có vai trò cầu nối trung gian để các tổ chức cung cấp dịch vụ vào trong KCN cung cấp.

- Căn cứ theo tính chất chuyên môn hóa, có thể phân biệt các KCN tổng hợp và các KCN chuyên môn hóa. Các KCN chuyên môn hóa thường tập trung sản xuất sản phẩm thuộc một hoặc một nhóm ngành cụ thể. Các KCN loại này thường dựa trên cơ sở lợi thế của vùng và lợi thế của chủ đầu tư và quy hoạch, cũng như chính sách kêu gọi đầu tư của địa phương.

- Căn cứ vào quy mô, các KCN được chia thành KCN lớn, vừa và nhỏ.

Các chỉ tiêu phân bổ quan trọng nhất có thể chọn là diện tích tổng số doanh nghiệp, tổng số vốn đầu tư, tổng số lao động và tổng giá trị gia tăng.

Các khu công nghiệp lớn được thành lập phải có quyết định của Thủ tướng chính

phủ.

Các khu công nghiệp vừa và nhỏ thuộc quyền quyết định của Chủ tịch UBND

tỉnh, thành phố.

- Theo tính chất ngành công nghiệp có thể liệt kê theo các ngành cấp I như: khu chế biến nông lâm hải sản, khu công nghiệp khai thác quặng, dầu khí, hóa dầu, điện tử, tin học, khu công nghiệp điện, năng lượng, khu công nghiệp phục vụ vận tải, khu công nghiệp vật liệu xây dựng v.v...

- Theo lãnh thổ địa lý: phân chia các khu công nghiệp theo ba miền Bắc, Trung, Nam, theo các vùng kinh tế xã hội (hoặc theo các vùng kinh tế trọng điểm); và theo các tỉnh thành để phục vụ cho việc khai thác thế mạnh của mỗi vùng, làm cho kinh tế xã hội của các vùng phát triển tương đối đồng đều, góp phần bảo đảm nền kinh tế quốc dân phát triển bền vững.

1.2 NGUYÊN LÝ CƠ BẢN THU HÚT FDI VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH

1.2.1 Mục tiêu thu hút FDI vào các khu công nghiệp

a. Phát triển kinh tế - xã hội địa phương

Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài gắn với phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội những năm gần đây. Các số

liệu thống kê cho thấy, tăng trưởng kinh tế có mối tương quan thuận chiều với tốc độ tăng thu hút FDI thực hiện hàng năm ở Việt Nam. Vốn FDI chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư của toàn xã hội. Việc gia tăng vốn FDI được giải ngân sẽ làm mở rộng quy mô sản xuất của các ngành kinh tế, từ đó tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của địa phương được đầu tư. Bên cạnh đó, FDI cũng giúp đẩy mạnh xuất khẩu, đóng góp vào thặng dư cán cân thương mại, từ đó thúc đẩy tăng trưởng GDP.

b. Tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, phương pháp quản lý hiện đại và kích thích sự phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ và doanh nghiệp trong nước.

Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể huy động được phần nào bằng "chính sách thắt lưng buộc bụng". Tuy nhiên, công nghệ và bí quyết quản lý thì không thể có được bằng chính sách đó. Thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp nơi tiếp nhận đàu tư có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh doanh mà các công ty này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng những khoản chi phí lớn. Tuy nhiên, việc phổ biến các công nghệ và bí quyết quản lý đó ra cả nước thu hút đầu tư còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực tiếp thu của đất nước.

c. Tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu

Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có vốn đầu tư của công ty đa quốc gia, mà ngay cả các xí nghiệp khác trong nước có quan hệ làm ăn với xí nghiệp đó cũng sẽ tham gia quá trình phân công lao động khu vực. Chính vì vậy, nơi tiếp nhận thu hút đầu tư sẽ có cơ hội tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu thuận lợi cho đẩy mạnh xuất khẩu.

d. Tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công

Vì một trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt được chi phí sản xuất thấp, nên xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao động địa phương. Thu nhập của một bộ phận dân cư địa phương được cải thiện sẽ đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế của địa phương. Trong quá trình thuê mướn đó, đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp, mà trong nhiều trường hợp là mới mẻ và tiến bộ ở các nước đang phát triển thu hút FDI, sẽ được xí nghiệp cung cấp. Điều này tạo ra một đội ngũ lao động có kỹ năng cho nước thu hút FDI. Không chỉ có lao động thông thường, mà cả các nhà chuyên môn địa phương cũng có cơ hội làm việc và được bồi dưỡng nghiệp vụ ở các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

1.2.2 Vai trò thu hút FDI vào các khu công nghiệp

Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp có vai trò như sau:

- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng lực sản xuất công nghiệp, tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp cho sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.

Xem tất cả 77 trang.

Ngày đăng: 22/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí