Thơ Dương Thuấn dưới góc nhìn văn hóa - 13


nhưng nhà thơ luôn biết cách tạo ra sự hóm hỉnh, dí dỏm để người đọc không cảm thấy sự áp đặt, khiên cưỡng từ những bài học mà tác giả đã đúc kết. Hãy nghe Dương Thuấn triết lý về tình cảm của người đàn ông mới biết Dương Thuấn dí dỏm và sâu sắc thế nào:

Đàn ông có ba quả tim Một quả cất để ở nhà

Một quả mang trong lồng ngực Một quả đem giấu ở vườn hoa

(Ba quả tim của đàn ông)

Ba quả tim của người đàn ông: một cất ở nhà (dành cho vợ), một mang trong ngực (dành cho mình để thở) và một đem giấu ở vườn hoa (dành cho người tình). Ngay đến cả bí mật tế nhị nhất của giới đàn ông cũng bị Dương Thuấn phơi bày nhưng lại bằng cách mà khó có ai mà giận được. Đọc bài thơ, độc giả là phụ nữ hay đàn ông thì cũng đều cười xòa vì cái duyên, hóm hỉnh của bài thơ nhưng sau đó chắc chắn người phụ nữ sẽ tự dặn mình: phải để ý đến quả tim thứ ba của đàn ông còn người đàn ông phải tự nhủ: mình phải cẩn thận hơn mới được.

Triết lý thơ của Dương Thuấn còn đạt đến độ tinh tế, tinh tế không phải ở chỗ nhà thơ dụng công trau chuốt, gọt giũa hình ảnh, ngôn ngữ quá mức mà lại nằm ở sự lạ hóa của cách nói:

Ở bản Hon có những bà già Ngày ngày ra bên bờ sống Năng

Cúi đầu xuống dòng sông than thở

Sông ơi, tôi già quá rồi nhưng sao chưa chết? (…)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

Ai rồi già cũng đến Ai rồi trẻ cũng qua…

(Những bà già)

Thơ Dương Thuấn dưới góc nhìn văn hóa - 13


Triết gia người vĩ đại người Hy Lạp Heraclit từng nói: Không ai tắm hai lần trên một dòng sông, câu này hàm ý là mọi thứ đều luôn vận động trong không gian và thời gian. Tất cả mọi sự vật và hiện tượng luôn luôn biến đổi và phát triển không ngừng, cũng như dòng sông kia nước luôn luôn vận động chảy trôi không bao giờ đứng lại. Ở đây, ta bắt gặp Dương Thuấn cũng triết lý về sự vận động chảy trôi của sự vật, thời gian, không gian nhưng không chỉ thế mà ông còn nói đến cả sự hữu hạn của kiếp người trước quy luật phát sinh và tiêu vong: trẻ - già - chết. Biết được quy luật tuần hoàn đó nhưng con người vẫn bất lực không thể thay đổi và họ chấp nhận, chấp nhận nhưng vẫn nuối tiếc: “Ôi, con người bao giờ hạnh phúc/ Ai rồi già cũng đến/ Ai rồi trẻ cũng qua”. Hình ảnh những bà già ra bờ sông Năng than thở về quy luật tuần hoàn của đời người là một hình ảnh lạ hóa trong thơ. Dương Thuấn đã làm mới lại thơ của chính mình bằng cái nhìn sâu sắc từ hiện thực quen thuộc hàng ngày ông nhìn thấy. Sự lạ hóa đôi khi không đến từ hình thức bên ngoài (về từ ngữ) mà ở chỗ nhà thơ biết cấp cho những sự vật, hiện tượng gần gũi dễ bị bỏ qua một cái nhìn sâu sắc hơn.

Với một số lượng tác phẩm viết về bản Hon và miền núi đồ sộ, Dương Thuấn được mệnh danh là nhà thơ của núi rừng. Tuy nhiên chàng trai của núi ấy đã băng rừng để đến với biển, hai tập thơ Lính Trường Sa thích đùa và trường ca Mười bảy khúc đảo ca của ông đã để lại nhiều thành công và rất ấn tượng đặc biệt về giọng thơ. Dương Thuấn viết về biển, về đảo, lấy cảm hứng từ biển đảo nhưng tư duy thơ của ông vẫn là tư duy của người vùng núi, giọng điệu của người miền núi. Đó là cách tư duy đơn giản, có sao nói vậy.

Chẳng hạn bài Ăn theo nước trong tập Lính Trường Sa thích đùa, nhà thơ viết bài này giữa biển Đông, viết về biển nhưng tư duy lại đặc sệt rừng: Người làm nương ăn theo lửa/ Người làm đồng ăn theo nước/ Sinh ra tắm nước thơm mới là con của mẹ/ Lớn lên tắm nước sông mới là con của làng/


Đóng con tàu đi ra giữa đại dương mới thành người của muôn nơi... Từ cuộc sống của cái tôi cá nhân nhà thơ đã hòa nhập với cái ta cộng đồng, dân tộc, nhân loại, ý nghĩa lớn lao đó được nhà thơ diễn tả cực kỳ đơn giản. Bài thơ mang đậm tư duy triết học về nhân sinh, cuộc sống, sự sinh tồn của con người nhưng cũng là bài thơ riêng của cá nhân Dương Thuấn. Ông đã đi từ chậu nước thơm tắm ở bản để thành con của mẹ lúc lọt lòng đến với đại dương bao la, cũng như ông hành trình từ bản Hon đến với nhân loại.

Quen lối nói, cách tư duy của người miền núi Dương Thuấn tạo nên một giọng thơ thật trong sáng, dung dị, vừa đủ để giãi bày. Ông không thích những cách cắt nghĩa to tát, rườm rà hay những ngôn từ quá phận. Không phải ngẫu nhiên mà Dương Thuấn đã hai lần được giải thưởng thơ viết cho thiếu nhi do Hội Nhà văn và Trung ương Đoàn trao tặng. Thế giới trẻ thơ ùa vào mỗi trang thơ Dương Thuấn vô cùng thân quen, gần gũi với cuộc sống của trẻ em miền núi. Nhà thơ khi viết cho thiếu nhi phải nhìn bằng con mắt thiếu nhi, nghĩ bằng cách nghĩ thiếu nhi, rung cảm cũng bằng chính tâm hồn thiếu nhi thì thơ mới thoát khỏi sự cố già trước tuổi. Cùng ca ngợi điệu hát lượn quê mình, ở bài Nàng ơi uống rượu, viết cho người lớn nên nhà thơ nhìn bằng con mắt của chàng trai say men tình còn viết cho thiếu nhi ông lại kể về sự tích các ngọn núi bằng một giọng cổ tích ngây thơ:

Ngày ấy… núi đi tìm nơi ở Núi về đến quê mình

Có tiếng lượn nàng ơi Núi đứng nghe mê mải Mà chân không biết bước Núi đứng đến bây giờ

Đọc bất cứ bài thơ viết cho thiếu nhi nào của Dương Thuấn ta cũng bất ngờ vì chúng vừa trong sáng, đáng yêu lại vừa ngộ nghĩnh, ngây thơ. Từ


chuyện bẫy cá, hái măng bỏ bùa yêu nhau, Dương Thuấn đều có cách diễn đạt tư duy của mình như tư duy của trẻ con mới lớn để ăn nhập với trẻ.

Đơn giản, ngắn gọn nhưng súc tích là đặc trưng của giọng điệu triết lý trong thơ Dương Thuấn. Dương Thuấn ưa thích sự dễ hiểu, ngắn gọn vì thế có khá nhiều bài thơ của ông giống chỉ có 3, 4 hoặc 5 dòng như những câu châm ngôn về cuộc sống và con người: “Nếu bạn chấp nhận cuộc sống như nó tự đến/ Bạn sẽ có cuộc sống không như bạn muốn/ Nhưng nếu bạn muốn có cuộc sống tốt hơn/ Thì ắt cuộc sống tốt hơn sẽ đến/ Bởi vì bạn là người yêu cuộc sống/ Còn cuộc sống chẳng bao giờ yêu bạn” (Cuộc sống), “Lòng người rộng như bầu trời cao rộng/ Đựng bao nhiêu mây gió cũng không vừa/ Lòng người hẹp như khe nhỏ hẹp/ Con rắn muốn đi chẳng có chỗ để bò” (Lòng người), “Có một ngày từng đám cỏ trên mặt đất kêu lên/- Làm thằng ngốc họ sẽ lấy hết ruộng nhà mình/ Làm người khôn quạ sẽ mổ ăn ruột mình”. (Tiếng cỏ)

Dương Thuấn sáng tác thơ cho nhiều đối tượng, lứa tuổi khác nhau vì thế sẽ là đơn điệu, nhàm chán nếu nhà thơ chỉ có duy nhất một giọng điệu. Bên cạnh giọng điệu kể tả, giọng điệu triết lý đậm chất miền núi làm chủ đạo thì thơ Dương Thuấn còn thu hút được sự chú ý của người đọc bởi giọng điệu khỏe khắn, vui tươi đúng như tính cách của con người miền núi. Từ bản Hon nhỏ bé nhà thơ Dương Thuấn lên đường đi xuống đồng bằng rồi đi khắp bốn phương trời nhưng tâm hồn vẫn đậm chất núi rừng: mạnh mẽ và can trường:

Ta có con mắt của con nai bên suối Ta có con mắt của con báo trong lồng Ta đi bộ từ núi xuống đồng bằng

Ta ghé tai hổ nói: Ta là họ Dương

Hổ liền cõng ta vượt núi Giữa đường gặp trăng sao

Ta ngồi cùng trăng sao uống rượu…


Những vần thơ giàu tính siêu thực ấy thể hiện tâm hồn phóng khoáng của người con núi rừng. Hoà mình với thiên nhiên, cảnh vật, nhà thơ luôn dạt dào cảm xúc, tâm hồn bay bổng, lâng lâng. Giống như con cá gặp nước, con hổ được trở về rừng, giọng điệu thơ Dương Thuấn trở thành lời reo vui sướng khiến câu thơ ngập tràn những cảm thán biểu lộ cảm xúc:

- Kìa thảo nguyên đẹp thế

- Ôi nắng vàng như mật

….

Thơ Dương Thuấn nói về cuộc sống miền núi. Dương Thuấn đã triệt để khai thác mảng đề tài này bằng cách nói mộc mạc, hiền hậu, dân dã mà cụ thể, sâu sắc của một người miền núi. Chính vì vậy mà cảnh vật, con người nơi đây tuy đề cập đến nhiều nhưng không trở thành sáo mòn mà nó luôn để lại ấn tượng đẹp trong lòng. Bởi xét tới cùng thì tận cùng của cái đẹp chính là sự đơn giản.

Giọng điệu khỏe khoắn, vui tươi trong thơ Dương Thuấn còn thể hiện ở cách nhà thơ nhìn về cuộc đời với một tinh thần lạc quan trước khó khăn, hoạn nạn:

Thôi cũng đừng buồn nhé

Rừng còn cây thì cây lại ra hoa…

(Đừng buồn lũ quét)

Làm ăn nhớ nhìn sau trước

Khi khổ cực hãy nghĩ đến khi vui

Nghe lời của pứt, bến cuối cùng sẽ đến…

(Lời của pứt)

Hiểu rõ cuộc sống của người miền núi còn gặp nhiều khó khăn nhà thơ làm dấy lên niềm yêu đời, tin vào ngày mai tươi sáng cho chính đồng bào


mình. Họ vốn mạnh mẽ như hổ báo của núi rừng vì thế có ý chí và niềm tin chính là sức mạnh băng qua thử thách, gian khổ.

Đọc thơ Dương Thuấn ta nhận ra có sự đối nghịch trong giọng điệu. Khi tác giả đau đớn thì giọng thơ đùa cợt nhưng sau cái ngạo mạn khinh đời lại là nỗi cô đơn:

Đêm nay đô thành ta đạp đổ

Ta là chàng trai của núi khinh đời

Ta chẳng cần đô thành em đã biết chưa Chẳng cần biết em qua bao ngôi nhà bị đổ

Trên hành trình ra đi của mình, cái tôi trải nghiệm của nhà thơ được hình thành chính vì vậy mà Dương Thuấn triết lý nhiều hơn, giọng thơ nghe ra nặng một nỗi niềm, giàu băn khoăn trăn trở. Vốn là một chàng trai núi khinh đời, ra đi cũng với một tư thế khinh đời: Ta đi từ rừng xuống bể/ Không nhìn mặt một ai. Tâm trạng buồn, chán nản xuất hiện khi nhà thơ đã nếm trải nhiều va chạm với cuộc đời:

Túi tình đầy bạc vạn Đã tiêu hết với đời

Giờ thì không còn dính túi Dù chỉ một chút hơi

Dương Thuấn như một kẻ độc hành cô đơn giữa dòng đời và ông khao khát được quay về cội. Bởi chỉ có về lại quê hương thì nỗi cô đơn đó mới được khỏa lấp và nhà thơ mới trở lại là chính mình.

Trên đây chúng tôi chọn khảo sát hai phương diện nghệ thuật: ngôn ngữ và giọng điệu trong thơ Dương Thuấn để làm rõ hơn giá trị văn hóa trong thơ Dương Thuấn. Là một người con của xứ Tày Bắc Kạn những vần thơ của Dương Thuấn luôn mang đậm hơi thở cuộc sống vùng cao từ khung cảnh thiên nhiên, đời sống sinh hoạt đến tâm hồn, nếp suy nghĩ của con người qua


giọng thơ kể tả bình dị nhưng đầy sức lôi cuốn. Đặc biệt ở cách sử dụng ngôn từ ví von, so sánh giàu biểu tượng – nét đặc trưng trong tư duy người dân tộc thiểu số là một sự độc đáo hấp dẫn riêng từ những trang thơ của Dương Thuấn. Đọc thơ để thấy người, có lẽ điều này hoàn toàn chính xác với Dương Thuấn. Là người con của dân tộc Tày, những vần thơ ông viết ra mang hồn vía của người Tày. Trong mọi sinh hoạt đời thường của người Tày luôn gắn với sự giao thoa văn hóa. Bản sắc văn hóa của dân tộc cứ tự nhiên thấm vào Dương Thuấn như hương thơm, như khí thở. Bằng một tâm hồn nhạy cảm tinh tế, Dương Thuấn đã rút ruột mình để sáng tác nên những lời thơ tri ân chính dân tộc đã sinh thành và nuôi dưỡng ông. Câu nói của người xưa “Nhân lưu danh, hổ lưu bì” (Người để tiếng cho đời, hổ thì để tấm da) đã ứng vào Dương Thuấn, ông đã lưu tiếng thơm vào lịch sử văn học và văn hóa không chỉ của dân tộc mình mà còn trên cả nền thơ ca Việt Nam hiện đại.


KẾT LUẬN

Một nhà văn, nhà thơ bao giờ cũng thuộc về một dân tộc, một nền văn hoá nhất định. Cho nên giá trị văn hóa của dân tộc trong văn học liên quan chặt chẽ tới chủ thể sáng tạo ra nó. Chính họ là người bảo tồn, làm giàu và phát huy (người giữ lửa và canh lửa - Raxun Gamzatốp) bản sắc dân tộc trong văn học, làm cho bản sắc đó không mất đi mà trường tồn mãi mãi. Như vậy, một tác phẩm muốn có được bản sắc dân tộc, nhà văn phải được tắm mình trong cội nguồn của nền văn hóa đó. Hiểu sâu sắc và yêu tha thiết truyền thống văn hoá của dân tộc mình, có cảm hứng và tài năng sáng tạo, thể hiện giá trị văn hóa đó bằng nội dung và hình thức nghệ thuật.

Để truyền tải được những giá trị văn hóa của dân tộc mình trong văn học không phải ngẫu nhiên mà tác giả nào cũng có, cũng không phải chỉ cố gắng phấn đấu là có được, mà nó được nảy sinh trong những điều kiện nhất định. Điều đó giải thích vì sao bản sắc dân tộc trong văn học dân tộc thiểu số được thể hiện rõ ràng, tập trung và có thành tựu nhất lại thuộc về lứa tuổi trên 40 và 60 hiện nay. Đó là Nông Quốc Chấn, Y Phương, Inrasara, Cao Duy Sơn, Lò Ngân Sủn, Dương Thuấn… Những nhà văn nhà thơ này đều được sinh ra và lớn lên ở quê hương mình, có một bề dày văn hoá nhất định, đều tốt nghiệp các trường Đại học hoặc qua trường viết văn Nguyễn Du (trừ Inrasara). Họ sáng tác vào những năm 80 của thế kỷ XX đến nay. Đó là thời kỳ mà ý thức dân tộc được thức tỉnh, thời kỳ mà văn học Việt Nam có nhiều tìm tòi đổi mới. Các nhà văn dân tộc thiểu số háo hức tìm tòi, khám phá phát hiện con người, cuộc sống dân tộc và miền núi, phấn đấu không mệt mỏi để tìm hiểu và thể hiện văn hóa dân tộc mình trong văn học. Chưa bao giờ bản sắc dân tộc trong văn học lại được bàn luận sôi nổi như thời kỳ này.

Một số nhà văn như Y Phương, Lò Ngân Sủn, Dương Thuấn, Mai Liễu, Cao Duy Sơn, Triệu Lam Châu, ... sau này chuyển ra đô thị làm ăn và sinh

Xem tất cả 118 trang.

Ngày đăng: 18/02/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí