Người Mường tin rằng tiếng đuống càng vang, càng rộn ràng bao nhiêu thì năm đó sẽ mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu và dân làng gặp nhiều may mắn. Hình thức giã gạo đã được nghệ thuật hóa để làm đẹp, mua vui. Đây là một tục lệ đẹp, thiết thực, biểu hiện tấm lòng trân trọng thành quả lao động của con người trong sản xuất nông nghiệp và sự đoàn kết giữa người với người ở bản Mường.
Đại bộ phận người Mường ở nhà sàn, kiểu nhà 4 mái. Rượu cần của người Mường nổi tiếng bởi cách chế biến và hương vị đậm đà của men, được đem ra mời khách quý và uống trong các cuộc vui tập thể. Trang phục tiêu biểu của phụ nữ là khăn đội đầu và áo cánh ngắn màu trắng, váy đen có cạp dệt hoa văn sặc sỡ và hoạ tiết cực kỳ phong phú. Hôn nhân có nhiều nét giống người Kinh. Tang ma cầu kỳ tốn kém. Người Mường có nền văn hoá dân gian phong phú với nhiều truyện cổ (mo) nổi tiếng "Đẻ đất đẻ nước", "lên trời"... Cuốn "Mo-Sử thi dân tộc Mường" dày hơn 2000 trang, là di sản vô giá không phải chỉ của dân tộc Mường mà của cả nền văn hoá Việt Nam. Múa dân gian phong phú như: múa vật, múa bông; nhạc cụ có cồng chiêng với hát xéc bùa là đặc sắc; đặc biệt ở người Mường phải kể đến lễ ca, đó là những áng mo, bài khấn do thầy mo đọc và hát trong đám tang.
Vào mỗi dịp lễ hội, người dân khắp các bản mường lại quay quần bên nhau, vui chơi ca hát. Các đôi trai gái chọn cho mình những bộ quần áo đẹp nhất để chuẩn bị đi hội, nhiều trò chơi dân gian được diễn ra. Đặc biệt họ hát giao duyên, đối đáp thâu đêm. Vì vậy những câu ví, đúm, thường, rang trở thành nỗi nhớ da diết nhất của bất cứ ai khi đi xa quê đặc biệt là các nhà thơ xứ Mường: Những lời thu nép vào lá xanh/ Như nón trắng cùng váy dài, áo Pắn/ Bóng em xa/ Gùi mây trên vạt sắn/ Con ong làm ngọt câu thường (Hoa đất Mường).
Mỗi một dân tộc đều có một loại nhạc cụ riêng. Nếu như người Nùng có nhạc cụ là cây đàn nhị cùng bộ xóc đồng lục lạc, thì người Mông có khèn ống trúc, kèn môi; nếu người Tày là đàn tính thì người Mường- cồng chiêng được coi là
nhạc cụ của dân tộc. Và các cuộc hát lượn ví, đúm, rằng, thường không thể thiếu âm vang của loại nhạc cụ này. Trong cảm nhận của Bùi Thị Tuyết Mai- một cây bút nữ dân tộc Mường, cồng chiêng là tiếng lòng từ ngàn năm vọng lại, là tiếng lòng của con người Tày trong mỗi mốc của thời đại: Ơi chiêng/ Ơi chiêng/ Đôi núm thiêng phập phồng hơi ấm (Ơi chiêng); Chín bài chiêng đẹp cho con lời chúc/ Chín bài cồng xinh cho con lời mừng/ Tiếng trống đồng cho con đủ giòn nếp tẻ/ Vò rượu hồng cho con đẹp hồng (Trong đám cưới).
Trong sinh hoạt văn hóa của người dân tộc miền núi không chỉ thể hiện trong các ngày lễ hội mà còn gắn liền với các phiên chợ rẻo cao- những phiên chợ gắn liền với cuộc sống sinh hoạt cũng như tinh thần của người dân miền núi. Chợ phiên họp có thể từ hai đến 3 lần trên một tháng, đây là nét đặc trưng của đồng bào miền núi. Phiên chợ không chỉ là nơi để tập trung buôn bán, trao đổi hàng hóa mà nó còn là không gian hò hẹn, tâm tình cho những đôi lứa yêu nhau. Đối với người Kinh mỗi phiên chợ diễn ra đều nhằm mục đích mua bán, thì với người dân tộc thiểu số ở Tây Bắc lại là nơi diễn ra các hoạt động văn hóa mang tính diễn xướng dân gian. Trong những buổi chợ phiên, họ hát những điệu ví, đúm, thường, rang, thổi sáo, múa khèn… để thu hút bạn tình. Vì thế, chợ tình đã trở thành nỗi nhơ khôn nguôi trong lòng người thi sĩ: Chợ tình đợi lâu/ Nhìn nhau/ Nhìn rất lâu/ Nhớ nhau mỗi năm mỗi sâu/ Chợ vắng người đợi đã lâu/ Một mình … Lắm thương nhớ đau (Gió kể); Đã thấy Nhà nhà tựa lưng vào núi/ Bóng chiều run run về núi/ Tiếng khèn trời kéo xuống/ Nôi đất Mường/ Câu hát tôi đây (Trở về).
Bên cạnh đó, chợ phiên còn là nơi diễn ra hoạt động giao duyên của nam thanh nữ tú hát những bài hát đối đáp để tìm hiểu nhau. Một loại hình chợ phiên độc dộc đáo không chỉ thu hút người trong nước mà giờ đây còn hấp dẫn và thu hút khách nước ngoài, đó là chợ tình ở Bắc Kạn có chợ tình Na Rì, Lào Cai có chợ tình Sa Pa, Hà Giang có chợ tình Khau Vai... Chợ tình được tổ chức mỗi năm một lần trong một ngày để đôi lứa tìm hiểu và yêu nhau và đặc biệt là còn dành cho
lứa đôi lỡ dở có dịp để gặp nhau giãi bày tâm sự. Đây cũng là một nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa cộng động của người dân tộc thiểu số miền núi.
Bản sắc văn hóa dân tộc không chỉ được thể hiện qua các sinh hoạt cộng đồng của người dân miền núi mà nó còn được thể hiện qua các vật dụng quen thuộc trong gia đình. Trong tâm thức của Bùi Thị Tuyết Mai, những vật dụng, những âm thanh, những mùi hương... tưởng như vô tri vô giác nhưng lại mang đậm hồn quê, chúng neo giữ tâm hồn nhà thơ với cộng đồng để rồi khi đi đâu, về đâu thì cội nguồn với những nét bản sắc văn hóa đặc trưng của dân tộc miền núi vẫn là chốn đi về của con người. Chị đã có những vần thơ đầy xúc động khi viết về quê hương với những gì thân quen, ngọt ngào nhất: Con ra đi xa bờ ao, gốc ổi/ Xa mùi thơm tóc Mẹ/ Ôi! Con đi xa mãi mùi trầu vỏ, xa khúc quanh con suối/ Con đi xa mái nhà sàn (Tạm biệt Mẹ yêu); Tôi mơ giữa căn nhà cha mẹ/ Có bếp nhà sàn mùa đông ấm sực/ Gác bếp treo lủng lẳng những tảng thịt/ Thú rừng khô/ Đã đen kịt bồ hóng lâu ngày (Tôi mơ giữa căn nhà cha mẹ).
Có thể thấy hình ảnh bếp lửa nhà sàn là một biểu tượng nghệ thuật để nhận thấy những ngôi nhà của người dân miền núi đang sinh sống trên rẻo cao. Bếp lửa đó là nơi quay quần, xum họp của cả gia đình, nơi để mỗi người trong gia đình cùng chia sẻ mọi nỗi niềm, đó chính là hồn của nhà sàn, là mùi vị cả quê hương. Khi xa quê tất cả những người con đều nhớ về mùi quê hương- đó là mùi của bắp rang, sắn nướng, cá đồ, lợn thui, và nếp xôi thơm dẻo… những mùi vị đó chứa đựng bao tình cảm đầy vơi cùng với bao kỉ niệm của một đời người dân miền núi.
Có thể bạn quan tâm!
- Thơ Bùi Thị Tuyết Mai - 4
- Khái Niệm Cảm Hứng Và Cảm Hứng Chủ Đạo Trong Thơ
- Con Người Miền Núi: Mộc Mạc, Chân Thành Nhưng Cũng Rất Lãng Mạn.
- Cảm Hứng Viết Về Cái Tôi Cá Nhân Người Phụ Nữ Mường Thời Kỳ Hiện Đại
- Hình Ảnh Thơ, Biểu Tượng Thơ Mang Đậm Màu Sắc Mường
- Những Biểu Tượng Thơ Mang Đậm Bản Sắc Mường
Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.
Nếu như chàng trai trong thơ Nông Thị Ngọc Hòa coi cái cầu thang là điểm đến của tình yêu, là con đường duy nhất đến với trái tim của cô gái Tày: Lên cầu thang bám vào hai bầu vú/ Ta làm con hoẵng con mang bé nhà/ Làm bếp nhà sàn không ngủ/ Xin em hãy bắt làm chồng (Cầu thang). Thì cô gái Mường lại chọn chỗ “neo đậu” tâm hồn mình là những con đường, là đá, là câu hát, bày tỏ tình yêu một cách thẳng thắn, sáng suốt mà vẫn đầy tình tứ:
Đừng ngại đường xa/ Có lòng là đến/ Mường em quý người hơn bạc nén/ Đã dặn rồi/ Đến hẹn cố mà lên (Mời anh); Hỏi thăm gốc trầu nhà anh/ Hỏi thăm rễ cây tre nhà anh/ Hỏi thăm đàn cá lượn nơi anh thường đi/ Hỏi thăm cây si nơi anh hay đậu/ Em yêu anh thẳng (Em yêu anh thẳng).
Như vậy, bếp lửa, nhà sàn, mùi ngô sắn nướng, con đường... đã trở thành nơi chứa đựng tâm hồn con người miền núi, chứa đựng bao nét đẹp của bản sắc văn hóa quê hương, nó cứ day dứt, ám ảnh trong lòng những con người xa quê. Tình yêu thiết tha với nền văn hóa dân tộc trong thơ Bùi Thị Tuyết Mai không chỉ được thể hiện qua trang phục, vật dụng quen thuộc của người DTTS mà còn được khắc họa rất chân thực, độc đáo qua cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, từ lao động sản xuất đến sinh hoạt đời thường. Đó là những hoạt động rất đỗi bình dị nhưng mang đậm nét văn hóa của người miền núi, dù đó chỉ là những nếp sinh hoạt quen thuộc nhưng ấp ủ trong đó biết bao tình cảm, kỉ niệm thân thương đối với người con xa xứ: Ai về/ Quê trong nếp nhà sàn/ Khói vỗ/ Như mèo ru/ Ầu ơ/ măng đắng/ Măng chua/ Bát canh có nắng có mưa/ Trái cà vỏ ngọt/ Cái suối con thoi thân thuộc đây mà (Chiều nay ai về). Cũng có khi bản sắc dân tộc được thể hiện trong cách chăm sóc nuôi dạy con cái của những ông bố bà mẹ người Mường: Đừng bơi xa lời ru/ Đừng ở nhà quanh mẹ/ Đã học phải học cho suốt/ Đã làm phải làm đến nơi/ Đến nhà người thì phải yêu người (Lời xóm lời làng).
Một điều cần phải nói đến, đó là những em bé vùng cao từ lúc sinh ra đến lúc lớn lên đã được thiên nhiên nuôi dưỡng, được sống làm bạn với thiên nhiên. Chúng ta đều biết trẻ em vùng cao không được chăm sóc chu đáo như trẻ em ở miền xuôi, chính vì thế ngay từ khi sinh ra trẻ em đã phải tự biết nương nhờ vào thiên nhiên mà sống và phải biết tự lao động để nuôi sống bản thân và gia đình. Sống ở miền núi cao hiểm trở, người con trai phải biết săn bắn để tự bảo vệ bản thân và dùng những con thú săn được để làm thực phẩm, còn người phụ nữ phải biết trồng đay dệt vải nhưng cũng phải giữ được những nét duyên dáng, vẻ đẹp nữ tính cần phải có. Những lời bảo ban, dạy dỗ của ông bà, cha
mẹ Mường rất giản dị nhưng thiết thực và chắc chắn sẽ là hành trang cho các con mang theo suốt cả đời .
Đối với người miền núi, phong tục uống rượu không thể thiếu trong những ngày đông giá rét nơi rẻo núi cao. Rượu có mặt trong các lễ hội, đám cưới, đám hỏi, chợ phiên, trong bữa cơm của gia đình. Rượu đã trở thành một nét bản sắc văn hóa ẩm thực đặc sắc, trở thành một thói quan không thể khác. Nét văn hóa đó được thể hiện ở nhiều phương diện. Ngay từ việc mời rượu cũng khiến đối phương khó có thể từ chối: Rượu em/ Rượu làm quen/ Có chua của hèn/ có ngọt của sang/ Mời anh uống cho gần làng/ Cho trọn nghĩa xóm/ .../ Rượu em/ Rượu soi gương/ Xa uống nên thương/ Gần uống thành nhớ/ Mời anh uống với em đừng sợ (Mời rượu). Cách chưng cất rượu cũng độc đáo qua cách nói đầy ẩn ý: Rượu em cất từ mắt lửa than/ Từ gan cà cuống/ Lấy từ lời mật lời quế (Mời rượu); Nơi cất rượu bồ đào/ Người yêu tôi thường hay nói đến/ Và ngợi ca nó (Nơi cất rượu bồ đào); đến cả dụng cụ đựng rượu mang đậm bản sắc văn hóa vùng miền: Đây sừng Rượu con ong/ qua suối vén váy khẽ/ Đây sừng rượu con nai lên núi/ bước nhè nhẹ/ Đây sừng Rượu của Mường (Rượu rót lúc đưa dâu); đến cách uống rượu cũng thật tự nhiên, hết mình: Sừng một uống cho ấm/ Sừng hai uống cho êm/…/ Uống cùng hai bản được con trâu cái/ Uống cùng bốn mường được mái nhà to/ Uống cho cây chu đồng bông thau/ quả thiếc đồi đỏ rực/ Sừng uống hết nghe coong coong/ Sừng cạn hẳn nghe coọch coọch (Lời rượu); Người dân tộc miền núi khi đã uống rượu, họ uống hết mình, không cần giữ ý, uống cho say nghiêng ngả, uống cho cạn, cho men say chuếnh choáng: Uống đi anh!/ Uống cho tay nắm tay bén lửa/ Uống cho mắt nhìn nhau nên sấm chớp đổ trời/ Uống cho cạn lời ông o bà Mỡi// Uống cho sông suối ông bà về lại tuổi xuân (Mời rượu). Tóm lại, có thể thấy thơ Bùi Thị Tuyết Mai là sản phẩm của một quá trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, bền bỉ, là tấm gương phản chiếu đời sống tinh thần dân tộc Mường. Đó là tình cảm của con người mến yêu, gắn bó với thiên nhiên miền núi mang những nét đặc trưng riêng
của vùng miền; đó là sự phác họa hình ảnh con người dân tộc xứ Mường kiên cường, dũng cảm, khéo léo tài hoa; đó là sự phản ánh những nét đẹp trong đời sống cộng đồng dân tộc thiểu số. Thơ chị dược chắt lọc từ những cảm xúc chân thành, tự nhiên, tinh tế và tình cảm thiết tha yêu cuộc sống, yêu dân tộc; vì vậy đọc thơ Bùi Thị Tuyết Mai chúng ta có thể hiểu được những giá trị nhân văn mang đậm hồn phách và cốt cách tinh thần của người dân xứ Mường. Qua những trang viết ngợi ca, gìn giữ những giá trị vật chất và tinh thần mang vẻ đẹp nguyên sơ của dân tộc, chị đã góp một phần để đưa tiếng nói của dân tộc mình đến gần hơn với người đọc.
2.3.2. Tự hào về vốn văn hóa truyền thống của tộc người Mường
Bản sắc Mường được còn được thể hiện một cách rõ nét trong nghệ thuật thơ của Bùi Thị Tuyết Mai. Chúng tôi muốn đi sâu vào đặc điểm này để khẳng định bản sắc Mường đậm đà trong các sáng tác của chị.
Có thể nói, đặc điểm nổi bật nhất trong thơ Bùi Thị Tuyết Mai là việc chị đã sử dụng ngôn ngữ của chính dân tộc mình vào trong quá trình sáng tác. Chính yếu tố ngôn ngữ đã khẳng định bản sắc Mường, phong cách Mường thấm đẫm trong thơ chị. Tiếp theo đó là việc kế thừa, tiếp thu tinh hoa của sử thi, truyện thơ, những là điệu, những bài hát dân ca Mường… một cách sáng tạo, nhuần nhuyễn trong quá trình sáng tác. Chính diều đó đã tạo nên một sự mới lạ, hấp dẫn riêng trong các sáng tác của chị nhưng vẫn không làm mất đi cái quen thuộc, gần gũi, thân thương nhất là đối với người miền núi, người dân tộc Mường khi đọc thơ của chị.
Việc kế thừa thơ ca truyền thống Mường trong sáng tác của chị thể hiện khá rõ về mặt thể loại. Bùi Thị Tuyết Mai đã viết rất nhiều bài thơ mà người đọc rất dễ nhận ra sự ảnh hưởng của sử thi thần thoại: Đẻ Đất Đẻ Nước của dân tộc Mường, kể về gốc tích và công cuộc đấu tranh của người Mường ở thời đại rất xa xưa, chứa đựng những quan niệm người Mường cổ về việc hình thành trời đất, tạo lập thế giới. Tác phẩm này được bảo tồn và lưu truyền dưới hình thức
truyền miệng, tập trung đầy đủ nhất dưới hình thức "mo" (hát cúng). Có thể kể đến các câu thơ như: Mường ta nơi đẻ Đất đẻ Nước/ Đẻ ba tầng bốn thế giới (Câu hát Mường) ; Trải dài bóng Si/ Cao rộng bóng Chu Đồng (Đường về); Xôn xao cánh cọ/ Xôn xao bông Thau (Tiếng gió); Những mùa trăng cứ thế hồn nhiên/ Nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động (Những câu thơ); Đây con suối Mường Thàng/ Đôi bờ thơm nương rẫy (Cho con tắm nước Mường Thàng); Ngoài ra, Bùi Thị Tuyết Mai còn vận dụng sáng tạo những lời thơ cũng như những giai điệu của các bài ví, đúm, thường, rang... của dân tộc Mường vào trong các sáng tác của mình. Đó là lối hát giao duyên, đối đáp, lối ngâm thơ, lối viết thơ đậm chất trữ tình của dân tộc Mường trong đời sống văn hóa của họ. Ví dụ các bài: Cởi lửa/ Hát ru/ Ví đúm/ Rằng Thường (Mời anh); Rủ lòng thương mà đậu bồng bềnh ví đúm/ Đem lòng quý mà ngọt khúc đang thường (Lời rượu); Rằng thường/ Bộ Mẹng/ Xào xạc gió. Xào xạc gió (Lời hát của cô dâu); Mượn lời mây soi bóng nhau cho rõ/ Mượn lời tình lọ cọ cho quên nỗi đau xưa (Lời tình lọ cọ)…
Trong các sáng tác, nhà thơ Bùi Thị Tuyết Mai còn rất hay sử dụng hình thức lập lời và đối ngẫu như trong sử thi Đẻ Đất Đẻ Nước trong văn học dân gian Mường: Đi qua rừng bạc bạc/ Đi qua biển xa xa/ Nhớ giữ lời cho ấm/ Nhớ giữ bước cho êm (Trong đám cưới); Đây sừng rượu con ong/ qua suối vén vãy khẻ/ Đây sừng rượu con nai/ lên núi bước nhè nhẹ (Rượu rót lúc đưa dâu); Dúi mở mắt to tròn nghe lòng ta than/ Dúi ăn lá kìa nghe lòng ta đăng/ Ta yêu nhau từ bấy đến nay/ Muốn đến thăm nhau cách sông cách núi (Lời tình lọ cọ)... Bùi Thị Tuyết Mai đã vận dụng thủ pháp truyền thống đó vào trong thơ nên thơ chị luôn mang hơi thở của văn học dân gian quen thuộc của dân tộc. Tất cả các thể thơ truyền thống của dân tộc đều được chị còn sử dụng như: bốn chữ, năm chữ, bảy chữ và đặc biệt là thơ tự do không hạn định về câu chữ để diễn đạt phù hợp, hiệu quả hết tâm tư, tình cảm của con người. Ví dụ như: Tiếng gà gáy ban trưa/ Gọi gần tôi trở lại/ Tiếng thoi bà dệt vải/ Đưa tôi kịp về mùa (Thuyền gió). Với thể
thơ tự do, Bùi Thị Tuyết Mai một lần nữa khẳng định mình về tính hiện đại, về sự hòa nhập với đời sống thơ ca hiện đại, nhưng vẫn phát huy được những nét bản sắc riêng biệt của dân rộc mình với cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt đậm màu sắc dân tộc trong thể thơ tự do đó.
Người Mường có rất nhiều câu tục ngữ, thành ngữ rất đặc sắc, ý tứ thâm sâu nhưng dễ hiểu và có tính triết lí, giáo dục rất cao. Nhà thơ Bùi Thị Tuyết Mai rất có ý thức trong việc vận dụng các câu tục ngữ, thành ngữ đó vào trong thơ mình. Điều đó khiến thơ chị vừa dễ hiểu vừa sâu sa, vừa cổ điển lại vừa mang màu sắc hiện đại. Có thể kể đến các câu thơ sau: Nhà sàn đúc bằng vàng/ Không bằng có đứa con ngoan/ Trong nhà sẵn tiền sẵn của/ Chẳng bằng ai cũng chăm làm/ Lúc giàu nhớ lo khi khó/ Lúc có nhớ giúp người nghèo/.../ Chim khôn chọn cành cao mà đậu/ Người ngoan tìm bạn tốt cùng đi (Lời xóm lời làng)…
Bên cạnh đó, chị còn sử dụng nhiều ý tứ, nội dung của các câu thành ngữ, tục ngữ dân tộc để viết nên những câu thơ của mình, ví dụ như: Muốn chắc cột nhà cho con đi học; Sông sâu phải biết lội/ Được người phải biết thương (Lời xóm lời làng)…
Ngoài ra, trong thơ Bùi Thị Tuyết Mai chúng ta còn nhận thấy tác giả hay sử dụng từ láy một cách sinh động và sáng tạo đã giúp cho nhà thơ có các câu thơ hay, độc đáo như: Xào xạc gió/ Xao xác gió (Bài hát của cô dâu); Đi qua rừng bạc bạc/ Đi qua biển xa xa/…/ Vò rượu nồng cho con đẹp hồng vành vạnh rằm trăng (Trong đám cưới); Chim sa khắc khoải (Sình ca ban đêm); Tôi cỏ úa cỏ úa/ Rung rinh rung rinh/…/ Xôn xao cánh cọn/ Xôn xao Bông Thau (Tiếng gió); Bầy chim mở mắt đùa rí rich (Tinh mơ em trở dậy); Hồn ấy xa xôi thênh thang nẻo gió (Tượng ngồi); Những đồng bạc hia xòe rung reng (Của cha mẹ); Và đến khi vầng trăng hao hụt (Biển).
Bên cạnh đó, thì những đặc điểm về ngôn ngữ, về hình ảnh trong thơ của Bùi Tuyết Mai đã thể hiện sinh rất sinh động những nét độc đáo của bản sắc tộc