Chức Năng Quản Lý Vĩ Mô Về Tiền Tệ, Tín Dụng Và Hoạt Động Ngân Hàng


1.1.2. Chức năng của NHNN

Ngân hàng trung ương thực hiện hai chức năng cơ bản: là ngân hàng của quốc gia và thực hiện chức năng quản lý vĩ mô các hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng nhằm đảm bảo sự ổn định tiền tệ và an toàn cho cả hệ thống ngân hàng, qua đó mà thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế.

1.1.2.1 Chức năng ngân hàng của quốc gia

Chức năng ngân hàng của quốc gia được thể hiện ở các nhiệm vụ sau đây:

Thứ nhất, Ngân hàng phát hành tiền: NHTW được giao trọng trách độc quyền phát hành tiền theo các qui định trong luật hoặc được chính phủ phê duyệt (về mệnh giá, loại tiền, mức phát hành...) nhằm đảm bảo thống nhất và an toàn cho hệ thống lưu thông tiền tệ của quốc gia. Đồng tiền do NHTW phát hành là đồng tiền lưu thông hợp pháp duy nhất, nó mang tính chất cưỡng chế lưu hành, vì vậy mọi người không có quyền từ chối nó trong thanh toán. Nhiệm vụ phát hành tiền còn bao gồm trách nhiệm của NHTW trong việc xác định số lượng tiền cần phát hành, thời điểm phát hành cũng như phương thức phát hành để đảm bảo sự ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế.

Thứ hai, Ngân hàng của các ngân hàng: NHTW không tham gia kinh doanh tiền tệ, tín dụng trực tiếp với các chủ thể trong nền kinh tế mà chỉ thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng với các ngân hàng trung gian. Bao gồm:

+ Mở tài khoản và nhận tiền gửi của các ngân hàng trung gian: NHTW nhận tiền gửi từ các ngân hàng trung gian dưới hai dạng tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi thanh toán.

+ Cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian: NHTW cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian dưới hình thức chiết khấu lại (tái chiết khấu) các chứng từ có giá ngắn hạn do các ngân hàng trung gian nắm giữ. Thông qua hành vi mua lại này, NHTW đã làm tăng lượng vốn khả dụng cho hoạt động của ngân hàng trung gian, tạo điều kiện cho các ngân hàng này mở rộng các hoạt động tín dụng. Việc cấp tín dụng của NHTW cho các ngân hàng trung gian không chỉ giới hạn ở nghiệp vụ tái chiết


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

khấu các chứng từ có giá mà còn bao gồm cả các khoản cho vay ứng trước có đảm bảo bằng các chứng khoán đủ tiêu chuẩn, các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ tại NHTW.

+ Là trung tâm thanh toán bù trừ cho hệ thống ngân hàng trung gian: Vì các ngân hàng trung gian đều mở tài khoản và ký gửi các khoản dự trữ bắt buộc và dự trữ vượt mức tại NHTW nên chúng có thể thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt qua NHTW thay vì thanh toán trực tiếp với nhau. Khi đó, NHTW đóng vai trò là trung tâm thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng trung gian.Thông qua dịch vụ thanh toán bù trừ, NHTW góp phần tiết kiệm được chi phí thanh toán cho các ngân hàng trung gian và toàn xã hội, đảm bảo vốn luân chuyển nhanh chóng trong hệ thống ngân hàng và phản ánh chính xác quan hệ thanh toán giữa các chủ thể kinh tế trong xã hội. Mặt khác, thông qua hoạt động này NHTW có thể kiểm tra sự biến động vốn khả dụng của từng ngân hàng trung gian, là cơ sở để có những kiến nghị kịp thời.

Thanh tra tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Chi nhánh tỉnh Bắc Giang - 3

Thứ ba, Ngân hàng của chính phủ: Là một định chế tài chính công cộng, NHTW đã được xác định ngay từ khi ra đời là ngân hàng của chính phủ. Với chức năng này, NHTW có nghĩa vụ cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho chính phủ, đồng thời làm đại lý, đại diện và tư vấn chính sách cho chính phủ như:

- Làm thủ quỹ cho kho bạc nhà nước thông qua quản lý tài khoản của kho bạc: Tuỳ theo đặc điểm tổ chức của từng nước, chính phủ có thể uỷ quyền cho Bộ tài chính hoặc Kho bạc đứng tên chủ tài khoản tại NHTW. Hàng ngày, các khoản thu của nhà nước dưới dạng thuế, lợi nhuận hoặc khoản thu khác được gửi vào tài khoản này. NHTW có trách nhiệm theo dõi, chi trả, thực hiện thanh toán và cấp vốn theo yêu cầu của kho bạc và sử dụng số dư đó khi nhàn rỗi tương tự như tài khoản của khách hàng tại một ngân hàng trung gian.

- Quản lý dự trữ quốc gia: Dự trữ quốc gia bao gồm các loại tài sản chiến lược mà bất kỳ quốc gia nào cũng phải dự trữ cho nhu cầu chi tiêu trong những trường hợp khẩn cấp: vàng, ngoại tệ, chứng từ có giá của nước ngoài. NHTW là tổ chức được giao nhiệm vụ quản lý khoản dự trữ này. Dự trữ quốc gia không phải là loại tài sản tĩnh. Về nguyên tắc, NHTW chỉ cần giữ cho dự trữ không rơi xuống dưới mức tối


thiểu mà luật qui định. Còn trong quá trình hoạt động của mình, NHTW hoàn toàn có thể sử dụng dự trữ quốc gia để phục vụ cho thao tác trong chính sách tiền tệ.

- Cấp tín dụng cho chính phủ: NHTW có thể cấp cho chính phủ các khoản tín dụng nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời trong năm tài chính hoặc bội chi ngân sách vào cuối năm tài chính. Tuy nhiên do việc cho ngân sách vay trực tiếp sẽ làm tăng lượng tiền cung ứng, có thể dẫn đến nguy cơ lạm phát nên ngày nay các NHTW rất hạn chế các khoản tín dụng trực tiếp cho chính phủ. Phần lớn các khoản tín dụng được cấp gián tiếp thông qua việc tái chiết khấu các trái phiếu kho bạc do các ngân hàng trung gian nắm giữ.

- Làm đại lý, đại diện và tư vấn cho chính phủ: Dịch vụ đại lý mà NHTW cung cấp thường xuyên và có hiệu quả cho chính phủ là đại lý trong việc phát hành chứng khoán chính phủ khi chính phủ có nhu cầu bù đắp thiếu hụt ngân sách.

1.1.2.2. Chức năng quản lý vĩ mô về tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng

Đây là chức năng quyết định bản chất ngân hàng trung ương của một ngân hàng phát hành. Việc thực hiện chức năng này không thể tách rời khỏi các nghiệp vụ ngân hàng của NHTW.

- Xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia: Chính sách tiền tệ là chính sách kinh tế vĩ mô trong đó NHTW sử dụng các công cụ của mình để điều tiết và kiểm soát khối lượng tiền trong lưu thông nhằm đảm bảo sự ổn định giá trị tiền tệ đồng thời thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và đảm bảo công ăn việc làm.

- Thanh tra, giám sát hoạt động của hệ thống ngân hàng: Với tư cách là ngân hàng của các ngân hàng, NHTW không chỉ cung ứng các dịch vụ ngân hàng thuần tuý cho các ngân hàng trung gian, mà thông qua các hoạt động đó, NHTW còn thực hiện vai trò điều tiết, giám sát thường xuyên hoạt động của các ngân hàng trung gian nhằm: Đảm bảo sự ổn định trong hoạt động ngân hàng và bảo vệ lợi ích của các chủ thể trong nền kinh tế, đặc biệt là của những người gửi tiền, trong quan hệ với ngân hàng.


1.2. Tổ chức tín dụng

1.2.1. Khái niệm Tổ chức tín dụng

Tổ chức tín dụng được hiểu là tổ chức kinh tế kinh doanh tiền tệ, dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung cấp các dịch vụ thanh toán.

Về mặt kinh tế, đối tượng kinh doanh chính, mang tính chất nghề nghiệp của tổ chức tín dụng là tiền tệ và đó là dấu hiệu để phân biệt tổ chức tín dụng với các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế quốc dân.

Về mặt pháp lý, tổ chức và hoạt động của TCTD thuộc phạm vi áp dụng Luật các tổ chức tín dụng và chịu sự quản lý nhà nước của NHNN.

Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân.

1.2.2. Đặc điểm của Tổ chức tín dụng

Đối tượng kinh doanh của các tổ chức tín dụng: các TCTD hoạt động chủ yếu liên quan đến đối tượng là tiền tệ. Trong thời buổi kinh tế phát triển như ngày nay thì đối tượng kinh doanh của các tổ chức tín dụng không chỉ dừng lại ở tiền tệ mà còn nhiều loại hình khác nữa.

Hoạt động kinh doanh đặc thù của tổ chức tín dụng: tổ chức tín dụng có hoạt động kinh doanh đặc thù và chủ yếu đó là việc huy động vốn và sử dụng vốn sẵn có hoặc nguồn vốn huy động được:

- Huy động vốn của tổ chức tín dụng là việc nhận tiền gửi vay vốn ngân hàng nhà nước. Huy động vốn có thể được xem là một trong những nghiệp vụ xuất hiện sớm nhất trong hoạt động của các ngân hàng thương mại.

- Sử dụng vốn của tổ chức tín dụng là việc tổ chức tín dụng cấp tín dụng cung ứng dịch vụ thanh toán cho đối tượng sử dụng vốn của chính tổ chức tín dụng đ ó.

Tổ chức tín dụng hoạt động theo nguyên tắc đi vay để cho vay do đó giữa hoạt động huy động vốn và hoạt động sử dụng vốn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Để có vốn vay, tổ chức tín dụng phải thực hiện công tác huy động. Nếu số lượng vốn


huy động nhiều thì tổ chức tín dụng có thể tăng cường hoạt động sử dụng vốn, khi đó tổ chức tín dụng có thể mở rộng các khoản cho vay, các khoản đầu tư.

1.2.3. Phân loại tổ chức tín dụng

Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và Quỹ tín dụng nhân dân, trong đó:

- Ngân hàng: là loại hình TCTD có thể được thực hiện tất cả các hoạt động, các nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng theo quy định của Luật các TCTD. TCTD là ngân hàng không bị hạn chế phạm vi thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh như TCTD phi ngân hàng. Ngoài các hoạt động kinh doanh ngân hàng, TCTD là ngân hàng còn được thực hiện một số hoạt động kinh doanh khác như bảo quản tài sản quý hiếm, tư vấn tài chính…..Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã. Trong đó, Ngân hàng thương mại được chia thành Ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng thương mại cổ phần có vốn Nhà nước chi phối, Ngân hàng thương mại Cổ phần, Ngân hàng 100% vốn nước ngoài, Ngân hàng liên doanh.

- Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình TCTD được thực hiện một hoặc một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật các TCTD như là nội dung kinh doanh thường xuyên như nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản, trừ các hoạt động nhận tiền gửi của cá nhân và cung ứng các dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng. TCTD phi ngân hàng bao gồm công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác.

- Tổ chức tài chính vi mô là loại hình TCTD chủ yếu thực hiện một số hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ gia đình có thu nhập thấp và doanh nghiệp siêu nhỏ.

- Quỹ tín dụng nhân dân là tổ chức tín dụng do các pháp nhân, cá nhân và hộ gia đình tự nguyện thành lập dưới hình thức hợp tác xã để thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định nhằm mục tiêu chủ yếu là tương trợ nhau phát triển sản xuất, kinh doanh và đời sống. QTDND thuộc loại hình tổ chức kinh tế tập thể, hoạt động theo nguyên tắc tự bù đắp chi phí để thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo


giấy phép, chủ yếu trong phạm vi các thành viên. Quỹ hoạt động thường dưới sự bảo trợ của ngân hàng nhà nước, lãi suất tiền gửi và cho vay thường là linh hoạt, thực chất là các thành viên cùng góp vốn để kinh doanh tiền tệ.

Việc phân loại TCTD thành các tổ chức bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quản lý, kiểm tra, giám sát việc hoạt động cụ thể như sau:

- Đối với các tổ chức tín dụng: việc phân loại giúp cho tổ chức tín dụng biết mình nằm ở nhóm nào, áp dụng văn bản pháp luật nào để từ đó tuân thủ theo đúng pháp luật.

- Đối với nhà nước: việc phân loại giúp nhà nước căn cứ vào đó áp dụng biện pháp đảm bảo an toàn đối với từng loại hình, căn cứ để giới hạn hoạt động phù hợp với bản chất, chức năng, nghiệp vụ.

1.3. Thanh tra ngân hàng

1.3.1. Khái niệm, đặc điểm và hình thức thanh tra ngân hàng

1.3.1.1. Khái niệm thanh tra ngân hàng

Thanh tra là phạm trù gắn liền lịch sử, xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và gắn liền với quyền lực Nhà nước. Hoạt động thanh tra là chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý Nhà nước, là một trong ba yếu tố cấu thành nên sự lãnh đạo, quản lý đó là việc ban hành quyết định, tổ chức thực hiện quyết định, và thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quyết định. Thực chất thanh tra là việc xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét và kết luận phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý các vi phạm, góp phần thúc đẩy hoàn thành nhiệm vụ, hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế Nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức và công dân, bảo vệ lợi ích quốc gia.

Theo từng giai đoạn lịch sử, khái niệm về thanh tra cũng được nhận thức khác nhau. Đó là sự phản ánh về mô hình tổ chức các cơ quan nhà nước; về sự kiểm soát đối với hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước.

Theo Luật Thanh tra năm 2010 thì Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét,

đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có


thẩm quyền đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ

quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanhtra chuyên ngành. Liên hệ thực tế với ngành ngân hàng, mọi hoạt động thanh tra ngân hàng là hoạt động thanh tra chuyên ngành. Theo luật NHNN 2010, khái niệm thanh tra ngân hàng: “là hoạt động thanh tra của NHNN đối với các đối tượng thanh tra ngân hàng trong việc chấp hành pháp luật về tiền tệ và ng ân hàng” (khoản 11 Điều 6 Luật NHNN 2010).

1.3.1.2. Đặc điểm của thanh tra ngân hàng

Trên thế giới cơ quan thực hiện chức năng thanh tra ngân hàng là cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ ngân hàng như: Uỷ ban giám sát ngân hàng Ba Lan, Cơ quan quản lý tiền tệ Singapore, Uỷ ban quản lý ngân hàng Trung Quốc, Cơ quan thanh tra ngân hàng Úc…Tại Việt Nam, theo quy định thì Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng thuộc NHNN có chức năng thanh tra ngân hàng.

Như vậy, căn cứ vào cơ quan thực hiện ta có thể tổng kết lại một số đặc điểm của thanh tra ngân hàng như sau:

* Tính quyền lực nhà nước

Là một chức năng của quản lý nhà nước, thanh tra ngân hàng phải là công cụ đắc lực nhằm thực hiện quyền lực của NHNN đối với đối tượng quản lý là các tổ chức có hoạt động ngân hàng. Nói về quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra cũng có nghĩa là xác định về mặt pháp lý tính chất nhà nước của NHNN. Đối với các quốc gia trên thế giới, chủ thể tiến hành thanh tra, luôn là cơ quan nhà nước, dù mô hình tổ chức thanh tra có khác nhau. Vì vậy, thanh tra phải được nhà nước sử dụng như một công cụ có hiệu quả trong quá trình quản lý. Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra ngân hàng được thể hiện ở những mặt là: Ra các quyết định bắt buộc thực hiện đối với các đối tượng bị thanh tra về những vấn đề đã bị thanh tra phát hiện và xử lý; Yêu cầu cấp có thẩm quyền giải quyết đề nghị của thanh tra; yêu cầu truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những người vi phạm pháp luật; Trong những trường hợp cần thiết, trực tiếp áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước. Ngoài ra, tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra còn được cụ thể hóa ở chức năng, nhiệm


vụ, quyền hạn của NHNN; phương thức tiến hành thanh tra; xử lý kết quả thanh tra; trong mối quan hệ giữa NHNN với đối tượng thanh tra cũng như trong sự phối hợp giữa NHNN với các tổ chức thanh tra nhà nước khác theo cấp hành chính và theo ngành, lĩnh vực. Hoạt động thanh tra đòi hỏi phải sử dụng đồng bộ tính quyền lực nhà nước trên tất cả các lĩnh vực, như vậy mới phát huy hiệu quả của thanh tra (Thanh tra Chính phủ, 2012).

* Tính độc lập tương đối

Tính độc lập tương đối là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của thanh tra ngân hàng. Khác với hoạt động kiểm tra thường do bản thân các cơ quan quản lý nhà nước tự tiến hành, hoạt động thanh tra ngân hàng thường được tiến hành bởi NHNN. Vì vậy, khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, ngoài việc đảm bảo sự phối kết hợp nhịp nhàng với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, hoạt động thanh tra còn có tính độc lập tương đối trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Điều này được thể hiện ở chỗ, NHNN được phép tự mình tổ chức các cuộc thanh tra trên các lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng theo thẩm quyền đã được pháp luật qui định. Trên cơ sở kết quả thanh tra ra các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý theo các qui định của pháp luật về thanh tra, chịu trách nhiệm về quyết định thanh tra của mình. Tính độc lập của hoạt động thanh tra ngân hang chỉ là tương đối, vì ngoài việc căn cứ vào pháp luật, hoạt động thanh tra còn phải xuất phát từ thực tế cuộc sống, phải đặt sự vật, hiện tượng trong sự phát triển biện chứng với quan điểm khoa học, khách quan, lịch sử, cụ thể (Thanh tra Chính phủ, 2012).

* Thanh tra luôn gắn với quản lý nhà nước

Ngoại trừ hoạt động giám sát xã hội của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan nhà nước thông qua khiếu nại, tố cáo, thanh tra ngân hàng luôn gắn với quản lý nhà nước. Quản lý nhà nước và thanh tra ngân hàng có điểm chung là nhân danh quyền lực nhà nước, thực hiện sự tác động lên các tổ chức có hoạt động ngân hàng. Quản lý và thanh tra có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thanh tra chỉ xuất hiện khi có nhà nước và ở đâu có quản lý nhà nước thì ở đó có thanh tra. Trong mối quan hệ này, quản lý nhà nước giữ vai trò chủ đạo, chi phối hoạt động của thanh tra (thể hiện ở

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/10/2022