Sự Phối Hợp Giữa Các Cấp, Các Ngành Có Liên Quan Chưa Chặt


định, dẫn đến không đủ kinh phí hoạt động như có những vụ khiếu kiện, tai nạn lao động, đình công kéo dài, vi phạm pháp luật khác thanh tra phải đi giải quyết nhưng kinh phí lại không có.

2.2.4.8. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành có liên quan chưa chặt

chẽ

Trong thời gian qua, sự phối hợp giữa ngành Lao động- Thương binh

và Xã hội với các cơ quan liên quan chưa thật sự chặt chẽ. Một mặt, bản thân cơ quan quản lý nhà nước là Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chưa tích cực, chủ động trong việc chủ trì phối hợp với tổ chức công đoàn và phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam để thống nhất chương trình kế hoạch thanh tra, kiểm tra, nhằm hướng dẫn, giúp các doanh nghiệp có biện pháp khắc phục tồn tại.

Tổ chức công đoàn là đại diện hợp pháp cho người lao động nhưng thời gian qua nhìn chung các cấp công đoàn cơ sở còn nhiều bất cập như năng lực một số cán bộ công đoàn còn hạn chế, thậm chí ở một số nơi cán bộ công đoàn chưa toàn tâm, toàn ý đấu tranh với chủ sử dụng lao động để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động. Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn nhiều doanh nghiệp chưa có tổ chức công đoàn, những doanh nghiệp có tổ chức công đoàn thì hầu hết chưa xây dựng quy chế phối hợp giữa người sử dụng lao động với Ban chấp hành Công đoàn trong doanh nghiệp và do đó tính chất bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động chưa có tác dụng thiết thực.

Tại các địa phương chưa xây dựng, phát triển tổ chức đại diện của người sử dụng lao động để các doanh nghiệp thông qua tổ chức của mình cùng tổ chức công đoàn, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đàm phán, thương lượng, hoà giải xây dựng quan hệ lao động bền vững. Việc chỉ đạo


của các hiệp hội doanh nghiệp, các tổ chức thành viên tại địa phương để phối hợp với các bên liên quan tổ chức thực hiện pháp luật lao động chưa hiệu quả, thiếu cụ thể, sát sao, kịp thời và đồng bộ, do đó việc giải quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ lao động tại các doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả như mong muốn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.

Việc phối hợp với các cơ quan, đơn vị khác trong việc thanh tra chính sách người có công và xã hội, thanh tra hành chính và giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa thực sự hiệu quả. Việc đề nghị các đơn vị có liên quan cử cán bộ tham gia đoàn thanh tra nhiều khi bị từ chối hoặc cử những cán bộ không đủ trình độ, nghiệp vụ tham gia Đoàn thanh tra, làm ảnh hưởng đến công tác của ngành.

Tất cả những nguyên nhân trên đã dẫn đến công tác thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội còn có những hạn chế nhất định.

Thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội Lý luận, thực trạng và giải pháp - 12

Tóm lại: Sau khi khái quát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về Thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội, luận văn đã nêu những nét cơ bản về tổ chức bộ máy; chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội. Từ đó, luận văn đi sâu nghiên cứu, phân tích thực trạng thực hiện chức năng, nhiệm vụ, vạch ra những ưu điểm, khuyết điểm và nghiên cứu các nguyên nhân dẫn đến những khuyết điểm đó.

Luận văn nhận định: Nằm trong hệ thống pháp luật về thanh tra nói chung, pháp luật về Thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội nói riêng cũng thường xuyên thay đổi theo hướng ngày càng hoàn thiện, đặc biệt khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước thì pháp luật cũng phải thay đổi, tạo hành lang pháp lý cho các quan hệ xã hội mới phát triển. Mốc đánh dấu một bước ngoặt mới cho ngành thanh tra nói chung là sự ra đời của Luật Thanh tra. Luật Thanh tra ra đời năm 2004 là


cơ sở pháp lý quan trọng đảm bảo về mặt tổ chức và hoạt động của thanh tra. Mặc dù còn có những hạn chế nhất định song được sự quan tâm của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước, sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ trưởng cơ quan thanh tra và những nỗ lực phấn đấu của tập thể cán bộ thanh tra, Thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội đã đạt được kết quả tốt về các mặt công tác: thanh tra việc thực hiện chính sách lao động, chính sách người có công, chính sách bảo trợ xã hội, phòng chống tệ nạn xã hội; công tác tiếp công dân, xử lý thư đơn và giải quyết khiếu nại, tố cáo; công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng và lãng phí trong nội bộ ngành… Qua đó, vị trí và vai trò của Thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội càng được khẳng định và là một hoạt động không thể tách rời công việc quản lý nhà nước của ngành.


Chương 3‌

CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC THANH TRA NGÀNH LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI


3.1. CÁC CHÍNH SÁCH, ĐỊNH HƯỚNG LỚN CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC THANH TRA

3.1.1. Chính sách, định hướng về công tác thanh tra nói chung

Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII khẳng định: Tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, coi đó là công cụ quan trọng và hữu hiệu để bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước, thiết lập kỷ cương xã hội [4]. Văn kiện


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII cũng nêu rõ: “khắc phục tình trạng nhiều đoàn kiểm tra, thanh tra chồng chéo lên nhau, gây phiền hà và tốn kém cho cơ sở” [3, tr. 242]. Tại Nghị quyết Đại hội X của Đảng khẳng định: “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát với nhận thức và yêu cầu mới: công tác kiểm tra, giám sát phải góp phần phát hiện và khắc phục được những khuyết điểm, thiếu sót khi mới manh nha… Coi trọng kiểm tra, phát huy nhân tố tích cực” [7, tr. 291].

Quán triệt quan điểm của Đảng về công tác thanh tra, kiểm tra đã được thể hiện trong các Nghị quyết Đại hội VIII, XIX, X, trong thời gian tới công tác thanh tra cần được đổi mới theo các hướng sau đây:

- Đổi mới và tăng cường công tác thanh tra của Chính phủ và các cơ quan hành pháp; củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan Thanh tra nhà nước; có cơ chế phù hợp về kiểm tra, kiểm soát, thanh tra của Nhà nước đối với doanh nghiệp; kiểm tra, kiểm soát, thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật, chống buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại; thanh tra, kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát bảo đảm tính minh bạch trong việc sử dụng ngân sách nhà nước, tài sản công, tài chính đảng, đoàn thể, tài chính các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ do người dân đóng góp và do nước ngoài tài trợ.

- Tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra, tập trung giải quyết khiếu kiện của nhân dân, coi đó là công cụ quan trọng để đảm bảo hiệu lực quản lý của Nhà nước, quyền làm chủ của người dân, thiết lập trật tự, kỷ cương xã hội. Phân định rõ hơn trách nhiệm của cơ quan Thanh tra và Toà hành chính trong việc giải quyết khiếu kiện của dân.

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra cần tiến hành đồng bộ với cải cách bộ máy nhà nước, trên cơ sở phân định thẩm quyền trách nhiệm giữa các


cấp chính quyền, cơ quan quản lý nhà nước theo ngành và lĩnh vực, giữa các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra, điều tra ở các cấp trung ương và địa phương.

- Đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra phù hợp với quá trình đổi mới cơ chế từ kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với chức năng quản lý nhà nước trong điều kiện mới. Xây dựng cơ chế tự kiểm tra trong nội bộ cơ quan, tổ chức nhà nước; đề cao trách nhiệm thanh tra, kiểm tra của cấp trên đối với cấp dưới, của cấp chính quyền đối với mọi cơ quan, tổ chức trên địa bàn và lãnh thổ.

- Thiết lập hệ thống tổ chức thanh tra tinh gọn, có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng; tăng thẩm quyền xử lý hành chính, kinh tế tại chỗ đối với các hành vi vi phạm pháp luật; bảo đảm cho hoạt động thanh tra chỉ tuân theo pháp luật; kết hợp lãnh đạo tập trung thống nhất theo ngành với chỉ đạo của cấp uỷ và chính quyền địa phương đối với các tổ chức Thanh tra nhà nước.

- Xây dựng đội ngũ công chức thanh tra có phẩm chất đạo đức, có năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới; xây dựng hệ thống pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo phù hợp với tiến trình cải cách hành chính nhà nước.

- Cần có quy chế tạo thuận lợi để người dân trình bày ý nguyện, thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của mình; tăng cường công tác giám sát, kiểm tra của cấp trên đối với nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo của cấp dưới.

3.1.2. Chính sách, định hướng về công tác thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội nói riêng


Tại Chỉ thị số 06/2006/CT-TTg ngày 06 tháng 3 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ đã chỉ rõ: cần tăng cường chỉ đạo và chấp hành pháp luật lao động trong các doanh nghiệp [34].

Theo Thông báo số 134/TB-VPCP ngày 29 tháng 8 năm 2006 của Văn phòng Chính phủ về kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp bàn biện pháp xử lý vấn đề đình công trong thời gian sắp tới, Thủ tướng đã chỉ đạo:

Giao Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra và giám sát việc chấp hành pháp luật lao động trong các doanh nghiệp và xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật lao động để giảm thiểu tranh chấp lao động, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động. Củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức và tăng cường đội ngũ cán bộ thanh tra nhà nước về lao động, theo dõi và giải quyết vấn đề đình công, xem xét tăng biên chế thanh tra lao động cho phù hợp với sự phát triển của doanh nghiệp, trước hết là cấp quận, huyện nơi tập trung nhiều doanh nghiệp, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế [44].

Quán triệt chủ trương của Đảng, chỉ đạo của Chính phủ và để công tác Thanh tra Lao động – Thương binh và Xã hội đáp ứng được đòi hỏi của giai đoạn mới, góp phần hơn nữa vào việc thực hiện có hiệu quả mọi nhiệm vụ được giao, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã chỉ rõ hướng đi trước mắt và lâu dài là:

- Cải cách toàn diện hệ thống thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội theo hướng thanh tra chuyên ngành và thanh tra viên phụ trách vùng, áp dụng các quy định về thanh tra lao động theo thông lệ quốc tế vào việc cơ cấu lại và cải tiến công tác thanh tra của ngành Lao động – Thương binh và Xã hội cả về nội dung hoạt động và bộ máy tổ chức. Các cuộc thanh tra không chỉ có mục tiêu là phát hiện, xử lý qua thanh tra mà còn phải hướng


dẫn, phòng ngừa, kiến nghị, chấn chỉnh các sai phạm để đối tượng được thanh tra “tâm phục, khẩu phục” và khắc phục kịp thời các sai phạm.

- Xây dựng và hoàn thiện mô hình tổ chức hệ thống Thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội theo hướng thành một Tổng cục độc lập hoạt động trực tuyến từ trên xuống dưới. Đây là một nhiệm vụ quan trọng để hệ thống thanh tra lao động thực sự hoạt động có hiệu quả ít phụ thuộc vào cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương và phù hợp với điều kiện của Việt Nam.

- Xây dựng một cơ cấu tổ chức Thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội theo hướng tinh gọn, có thực quyền và gắn chặt với phạm vi quản lý của ngành.

- Phát triển nguồn nhân lực theo hướng xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra chất lượng cao, có tâm huyết với công tác thanh tra. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2010 tất cả cán bộ thanh tra có trình độ đại học, tăng số lượng cán bộ thanh tra có trình độ sau đại học so với hiện nay. Đảm bảo cán bộ thanh tra có trình độ tương đương với thanh tra lao động các nước trong khu vực. Xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra chất lượng cao, có khả năng trở thành những chuyên gia trong lĩnh vực thanh tra lao động. Nâng cao trình độ kiến thức về pháp luật, kỹ thuật, tài chính, ngoại ngữ, tin học cho cán bộ thanh tra, đặc biệt là thanh tra viên phụ trách vùng.‌

3.2. CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC THANH TRA NGÀNH LAO ĐỘNG – THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI

Trên cơ sở các định hướng của Đảng, Nhà nước và của Lãnh đạo Bộ, để công tác thanh tra Lao động – Thương binh và Xã hội tiếp tục phát huy được vị thế và vai trò của mình cần tiến hành thực hiện một số các giải pháp sau:

3.2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thanh tra


Điều 2 Hiến pháp 1992 sửa đổi quy định: “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” [8, tr. 178] và theo Điều 12 Hiến pháp 1992 “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” [8, tr. 126]. Để tiến tới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, một trong những yêu cầu quan trọng là phải có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đủ mạnh để làm công cụ quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Vì vậy, từng bước hoàn thiện pháp luật thanh tra là nhiệm vụ tất yếu nhằm đưa công tác thanh tra hoạt động có hiệu quả, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước của ngành Lao động – Thương binh và Xã hội.

Hệ thống pháp luật về thanh tra bao gồm các quy định của pháp luật về vị trí, chức năng, cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của tổ chức thanh tra các cấp và thanh tra viên; phạm vi hoạt động; trình tự, thủ tục, thời hạn thanh tra; các quy định về quyền, nghĩa vụ của đối tượng thanh tra; các quy định về tổ chức, biên chế và cơ chế hoạt động của thanh tra nhà nước; các quy định về chế tài và biện pháp đảm bảo thi hành quyết định xử phạt…

3.2.1.1. Sửa đổi, bổ sung Luật Thanh tra theo hướng quy định chi tiết về thanh tra chuyên ngành

Mặc dù Luật Thanh tra năm 2004 mới được thực hiện nhưng để áp dụng đối với thanh tra chuyên ngành như thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội đã bộc lộ một số hạn chế. Để khắc phục những mâu thuẫn, hạn chế về pháp luật thanh tra như đã phân tích ở phần 2.2.4.1 cần xây dựng mới, sửa đổi, bổ sung một số nội dung sau:

- Hiện nay tại một số Bộ, ngành trong đó có Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội tồn tại đơn vị thanh tra thuộc Cục, Tổng cục. Theo quy định của Luật Thanh tra thì hệ thống thanh tra không bao gồm tổ chức thanh tra này. Thực tế các cán bộ làm công tác thanh tra ở Cục, Tổng cục làm những

Xem tất cả 132 trang.

Ngày đăng: 09/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí