Tăng Mức Phạt Trong Nghị Định 113/2004/nđ-Cp, Xây Dựng Thông Tư Hướng Dẫn Nghị Định Số 04/2005/nđ-Cp


công việc của thanh tra viên nhưng nếu theo quy định thì họ lại không phải là thanh tra viên và do vậy không được quyền xử phạt. Luật Thanh tra cần quy định thanh tra thuộc Cục và Tổng cục cũng nằm trong hệ thống thanh tra.

- Ban hành nghị định quy định về hoạt động của thanh tra chuyên ngành theo hướng người ra quyết định thanh tra có thể ủy quyền cho Trưởng đoàn thanh tra hoặc thanh tra viên lập báo cáo kết quả thanh tra, kết luận thanh tra và công bố kết luận thanh tra tại doanh nghiệp. Quy định như vậy vừa đảm bảo đánh giá chính xác việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của đối tượng thanh tra thuộc nội dung thanh tra; vừa đảm bảo trình tự, thời gian, nội dung kết luận thanh tra; vừa xác định rõ tính chất, mức độ, phạm vi, nguyên nhân, trách nhiệm và áp dụng các biện pháp xử lý vì Trưởng đoàn thanh tra là người sâu sát nhất đối với nội dung thanh tra, là người phải chịu trách nhiệm về kết quả và kết luận thanh tra. Tại Nghị định này cũng cần quy định rõ thời hạn của cuộc thanh tra chuyên ngành, thời hạn viết báo cáo và kết luận của cuộc thanh tra chuyên ngành cho phù hợp.

- Theo Luật Thanh tra, Thanh tra các Bộ, ngành thuộc quyền quản lý trực tiếp của Thủ trưởng cùng cấp, nghĩa là Thanh tra Bộ chịu sự quản lý của Bộ trưởng, Thanh tra Sở chịu sự quản lý của Giám đốc Sở. Giữa Thanh tra Bộ và Thanh tra Sở chỉ có mối quan hệ về chỉ đạo nghiệp vụ nên hiệu lực công tác thanh tra bị hạn chế do không tạo được sức mạnh tổng hợp của hệ thống nên việc thực hiện không thống nhất. Vì vậy, Luật Thanh tra nên được sửa đổi quy định cụ thể về hệ thống thanh tra chuyên ngành theo hướng thanh tra trực tuyến mà hiện nay nhiều nước đang thực hiện có hiệu quả.

- Ban hành các chính sách quy định hành lang pháp lý cho hoạt động thanh tra viên phụ trách vùng và tổ chức thanh tra ngành. Ngoài việc quy định hệ thống thanh tra chuyên ngành theo hướng trực tuyến, đối với những ngành


chưa có điều kiện về số lượng, chất lượng cán bộ thanh tra và có đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho công tác thanh tra, Luật Thanh tra nên quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho thanh tra viên phụ trách vùng để hạn chế được những nhược điểm do phương thức tổ chức thanh tra theo đoàn.

- Bổ sung các quy định về chế tài xử lý, cưỡng chế đối với đối tượng không thi hành kết luận, kiến nghị xử lý sau thanh tra. Hiện nay, tại các văn bản mới chỉ quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ của tổ chức thanh tra và thanh tra viên nhưng chưa có quy định cụ thể về quyền hạn của các tổ chức thanh tra và thanh tra viên trong việc cưỡng chế thi hành nhằm đảm bảo thực hiện các kiến nghị trong kết luận thanh tra nên phần nào đã làm giảm đi hiệu quả và hiệu lực của công tác thanh tra. Chính vì vậy, cần bổ sung quy định cụ thể về quyền hạn của thanh tra ở khía cạnh cưỡng chế thi hành nhằm đảm bảo thực hiện các kết luận thanh tra. Đồng thời có quy định về chế tài xử lý cụ thể đối với các hành vi chống đối, cản trở thanh tra viên hoặc đoàn thanh tra khi thi hành công vụ và chế tài xử lý đối với đối tượng không thi hành quyết định thanh tra, kết luận, kiến nghị xử lý sau thanh tra. Điều này sẽ giúp đoàn thanh tra và các thanh tra viên yên tâm thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ của mình, giúp cho đoàn thanh tra kết luận sự việc một cách thật sự công bằng và đảm bảo cho các kết luận thanh tra được thực hiện nghiêm chỉnh.

- Nên bãi bỏ quy định về việc ghi Nhật ký Đoàn Thanh tra tại Điều 18 quy chế hoạt động của Đoàn Thanh tra ban hành kèm theo Quyết định số 2151/2006/QĐ-TTCP vì theo Luật Thanh tra thì đây là tài liệu không bắt buộc phải có trong hồ sơ thanh tra, mặt khác quy định này khó thực hiện trên thực tế vì: Mỗi cuộc thanh tra phải dùng một quyển Nhật ký nên số trang ít hay nhiều là không xác định được, do vậy việc in sẵn Sổ Nhật ký với số trang xác


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.

định sẽ gây lãng phí, mặt khác quy định Sổ Nhật ký phải dùng đúng logo và in theo mẫu quy định làm phát sinh chí phí không cần thiết. Nếu cần thiết phải sử dụng Nhật ký Đoàn Thanh tra thì chỉ nên quy định nội dung cần ghi, các Đoàn tuỳ theo nội dung cuộc thanh tra có thể tự đóng sổ nhật ký cho phù hợp về hình thức, số trang…

3.2.1.2. Tăng mức phạt trong Nghị định 113/2004/NĐ-CP, xây dựng Thông tư hướng dẫn Nghị định số 04/2005/NĐ-CP

Thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội Lý luận, thực trạng và giải pháp - 13

- Chế tài xử phạt hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động được quy định tại Nghị định 113/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 4 năm 2004 của Chính phủ tuy đã góp phần vào việc thực hiện pháp luật lao động nhưng do các quy định trong Nghị định này chưa sát với thực tế nên nhiều điểm không còn phù hợp, đòi hỏi trong thời gian tới phải tiến hành bổ sung, sửa đổi về nâng mức xử phạt cho mỗi hành vi vi phạm. Quy định như hiện nay là quá thấp, hạn chế việc răn đe các doanh nghiệp vi phạm pháp luật lao động. Đồng thời, Nghị định còn thiếu nhiều hành vi vi phạm mà chưa bị xử phạt cần phải bổ sung như quy định xử phạt việc doanh nghiệp không ký hợp đồng bằng văn bản với người lao động, bổ sung các hành vi vi phạm về bảo hiểm xã hội...

- Nghị định số 04/2005/NĐ-CP ngày 11/01/2005 của Chính phủ, quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về khiếu nại, tố cáo đã được thực hiện gần 2 năm nhưng đến nay chưa có thông tư hướng dẫn. Vì vậy, cần ban hành Thông tư hướng dẫn Nghị định 04 nhằm kịp thời giải quyết những mâu thuẫn phát sinh trong lĩnh vực lao động và cũng để Thanh tra viên thực hiện quyền, trách nhiệm của mình trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 187 Bộ luật Lao động.


3.2.1.3. Bãi bỏ thời hạn thanh tra phải báo trước tại Nghị định 61/1998/NĐ-CP

Việc quy định chung về công tác thanh tra, kiểm tra tại doanh nghiệp trong một văn bản pháp luật dễ gây nhầm lẫn, do bản thân cơ quan quản lý nhà nước, bản thân doanh nghiệp hiểu chưa đúng, chưa phân biệt rõ đâu là thanh tra, đâu là kiểm tra. Vì vậy, cần có quy định về khái niệm thanh tra, kiểm tra trong văn bản hoặc quy định thành hai văn bản riêng để điều chỉnh công tác thanh tra và kiểm tra tại doanh nghiệp.

Theo quy định tại Điều 13 của Nghị định 61 thì việc tiến hành thanh tra phải báo trước ít nhất 7 ngày nhưng tại khoản 1 Điều 187 Bộ luật Lao động quy định việc thanh tra, điều tra những nơi thuộc đối tượng, phạm vi thanh tra được giao bất cứ lúc nào mà không cần báo trước. Đồng thời khoản 2 Điều 37 của Luật Thanh tra chỉ quy định thời hạn báo trước ít nhất là 3 ngày. Vì vậy nên bãi bỏ quy định về thời hạn báo trước khi tiến hành thanh tra ở cả Nghị định số 61 và ở Luật Thanh tra.

Nghị định 61 quy định việc thanh tra nhất thiết phải tiến hành theo đoàn, khi làm việc với đối tượng thanh tra phải có ít nhất từ 2 người trở lên. Điều này không phù hợp với yêu cầu của công tác thanh tra lao động, xu hướng chung của thanh tra lao động thế giới và quy định tại khoản 2 Điều 50 của Luật Thanh tra: “Thanh tra viên chuyên ngành khi tiến hành thanh tra độc lập phải xuất trình thẻ thanh tra viên…”. Vì vậy, không nên quy định cứng việc thanh tra phải tiến hành theo đoàn mà tuỳ yêu cầu của cuộc thanh tra có thể tiến hành theo đoàn hoặc do thanh tra viên tiến hành độc lập.


3.2.1.4. Xây dựng một số văn bản pháp luật về thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội

- Xây dựng Nghị định quy định về cộng tác viên thanh tra, trang phục, phù hiệu, biển hiệu cho thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội để thực hiện thống nhất trong toàn ngành.

- Ngoài Luật Thanh tra, hoạt động của thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội còn chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Lao động. Điều 19 Bộ luật Lao động quy định Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội “Có trách nhiệm lập hệ thống tổ chức thanh tra nhà nước về lao động” [2]. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, chưa có một văn bản nào hướng dẫn việc lập hệ thống tổ chức thanh tra nhà nước về lao động. Thực tế hệ thống thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội trong đó có thanh tra nhà nước về lao động hiện nay được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Thanh tra.

3.2.1.5. Phân biệt rõ thẩm quyền của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ trưởng tại Luật Khiếu nại, tố cáo

Theo quy định tại khoản 3 Điều 24 và khoản 3 Điều 25 của Luật thì thẩm quyền giải quyết các quyết định giải quyết khiếu nại của Giám đốc Sở còn bị khiếu nại đều thuộc thẩm quyền của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ. Quy định này dễ dẫn đến tình trạng đùn đẩy trách nhiệm giữa cấp tỉnh và cấp Bộ trong việc giải quyết đơn khiếu nại của công dân. Vì vậy, cần sửa đổi theo hướng những trường hợp nào thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh giải quyết, trường hợp nào do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ giải quyết.



tra


tuyến

3.2.2. Đổi mới tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của thanh


3.2.2.1. Thiết lập thanh tra cấp quận, huyện và theo hệ thống trực


Căn cứ vào chức năng quản lý nhà nước của ngành và các điều kiện

thực tế của ngành thanh tra, năm 2005 Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã tổ chức triển khai thí điểm thanh tra theo phương thức thanh tra viên phụ trách vùng tại 11 tỉnh. Dựa vào kết quả năm 2005, từ năm 2006 Thanh tra Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã triển khai phương thức này tại 64 tỉnh, thành phố trong cả nước. Để thực hiện được điều này, do chưa có quy định của pháp luật về thanh tra viên phụ trách vùng nên thanh tra ngành Lao động

– Thương binh và Xã hội vừa thực hiện vừa rút kinh nghiệm để hoàn thiện.


Thực tế cho thấy với tốc độ phát triển của các doanh nghiệp hiện nay, với nhu cầu muốn kiểm soát việc thực hiện pháp luật lao động ở tất cả các doanh nghiệp, nếu cứ áp dụng tổ chức bộ máy thanh tra tại cấp Trung ương và cấp Sở như hiện nay thì không thể theo kịp. Vì vậy, về lâu dài hệ thống thanh tra lao động phải được thiết lập tới các quận, huyện và theo hệ thống trực tuyến nhằm kịp thời điều chỉnh, tăng cường thanh tra viên đến những nơi có nhiều vấn đề phát sinh cần kịp thời giải quyết. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay thì hệ thống thanh tra ngành chưa thể đáp ứng được yêu cầu đó nên trước mắt cần thực hiện thí điểm ở một số tỉnh, thành phố lớn – nơi có nhiều doanh nghiệp hoạt động- bố trí các thanh tra viên “nằm vùng” tại các quận, huyện phải chịu trách nhiệm về địa phương mà mình phụ trách nhưng biên chế vẫn thuộc Thanh tra Sở. Có như vậy, Thanh tra lao động mới có thể nắm bắt tình hình và kịp thời giải quyết khi có vi phạm pháp luật phát sinh.


3.2.2.2. Áp dụng phương thức thanh tra viên phụ trách vùng và phiếu tự kiểm tra ở các lĩnh vực

Để nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, Thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội cần tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động thanh tra theo hướng: Trước mắt, chọn một số thanh tra viên có nhiều kinh nghiệm và kiến thức thanh tra lao động cũng như kiến thức quản lý phụ trách tại một số vùng tập trung nhiều doanh nghiệp, nhiều phức tạp về quan hệ lao động. Tại mỗi khu vực, các thanh tra viên của Bộ kết hợp với thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tiến hành các cuộc thanh tra lao động theo kế hoạch hoặc đột xuất, thực hiện giải quyết khiếu nại, tố cáo về lao động trên địa bàn được giao.

Sau đó, xây dựng kế hoạch đào tạo các thanh tra viên phụ trách vùng giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ ở tất cả các lĩnh vực như lao động, người có công, chính sách bảo trợ xã hội, chính sách phòng chống tệ nạn xã hội, chính sách bảo hiểm xã hội, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Khi đó một thanh tra viên phụ trách vùng có thể đảm đương được nhiều mảng thanh tra và các thanh tra viên này có thể kết hợp với thanh tra viên của các Sở tiến hành thanh tra tất cả các lĩnh vực.

Mặt khác, các thanh tra viên phụ trách vùng sẽ được luân chuyển giữa các địa phương, khoảng 3 - 4 năm luân chuyển một lần. Việc luân chuyển sẽ ngăn ngừa tình trạng các thanh tra viên bao che cho các doanh nghiệp và không để các tiêu cực khác xảy ra. Đồng thời việc luân chuyển sẽ tạo ra một cơ chế kiểm tra, giám sát lẫn nhau giữa các thanh tra viên. Do vậy thanh tra viên phụ trách vùng phải có tinh thần trách nhiệm cao đối với vùng được giao phụ trách.


Đối với công tác thanh tra việc thực hiện chính sách người có công, Thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội cũng cần phải đổi mới phương thức hoạt động. Trước hết phải xây dựng được quy trình, phương pháp thanh tra cho riêng lĩnh vực người có công và xã hội vì tính chất của nó rất đặc thù, do vậy không thể áp dụng một quy trình chung thống nhất cho cả thanh tra lao động, người có công và xã hội. Đồng thời, phải đổi mới hoạt động thanh tra theo hướng: Thanh tra Bộ sẽ xây dựng các biểu mẫu và đưa ra các tiêu chí để đánh giá việc thực hiện chính sách người có công và xã hội, trên cơ sở đó giao cho các Sở tự rà soát, tự kiểm tra theo các tiêu chí đã đưa ra. Dựa trên kết quả tự rà soát của các Sở, Thanh tra Bộ có thể đánh giá, nhận xét tìm ra những sơ hở, những mâu thuẫn để yêu cầu giải trình, đưa ra kiến nghị yêu cầu khắc phục các sai phạm, sau đó tổ chức kiểm tra việc thực hiện các kiến nghị đó hoặc lựa chọn một số đơn vị để tiến hành thanh tra. Việc đổi mới phương thức hoạt động sẽ khắc phục được tình trạng tốn kém, chi phí lớn cho nhiều người đi, đi dài ngày, mặt khác trình độ của các thanh tra viên sẽ được nâng cao, mỗi thanh tra viên phải phát huy được tính độc lập, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, không thể trông chờ ỉ lại vào các thành viên khác. Đồng thời với số lượng và chất lượng thanh tra viên như hiện nay thì chỉ áp dụng theo cách thức trên là phù hợp, đảm bảo cho các doanh nghiệp, cơ quan, đơn vị được thanh tra thường xuyên và trên diện rộng.

Song song với quá trình đổi mới phương thức hoạt động thì Thanh tra ngành Lao động – Thương binh và Xã hội cũng cần thực hiện các chính sách sau:

* Chính sách luân chuyển cán bộ.

Xem tất cả 132 trang.

Ngày đăng: 09/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí