qua. Bên caṇ h thơ cách luâṭ vừ a nêu , Quách Tấn còn làm thơ lục bát , lục bát biến thể và có khi dùng lối ca vè dân gian : thơ mỗi câu có ba, bốn, năm tiếng, mà tập thơ viết cho thiếu nhi Vui vớ i trẻ em là tiêu biểu cho thể này . Chỉ tính riêng trong 5 tâp̣ thơ xuất bản từ 1939 đến 1973, qua thống kê, có thể thấy các thể thơ mà Quách tiên sinh thường sử duṇ g như sau:
- Môt
tấm lòng (1939) có 74 bài, trong đó có 67 bài Đường luật (10 bài thất
ngôn tứ tuyệt, 04 bài ngũ ngôn tứ tuyệt, 53 bài thất ngôn bát cú); còn lại 07 bài (01 bài thất ngôn trường thiên, 05 bài lục bát, 01 bài ca viết theo lối kết hợp tứ ngôn, ngũ ngôn và lục bát).
- Mùa cổ điển (1941) có 36 bài, trong đó có 34 bài Đường luật (28 bài thất ngôn bát cú ; 06 bài thất ngôn tứ tuyệt); còn lại 02 bài lục bát . Ở tập Mùa cổ điển
(bản mới , 1960) thì có 59 bài, trong đó tuyển từ tâp bài, còn lại 30 bài mới . Đây là những bài thơ đươc̣
thơ xuất bản năm 1941 là 29 viết sau năm 1941, chủ yếu là
trong những năm kháng chiến chống Pháp . Tâp
còn lại là thơ cách luật.
thơ sau cũng chỉ có vài bài lục bát,
Có thể bạn quan tâm!
- Quê Hương Đấ T Nướ C: Những Nơi Chốn Đã Đi Qua
- Nhìn Thiên Nhiên Qua Cảm Quan Thiền Đạo
- Những Thể Thơ Được Quách Tấn Sử Dụng Trong Các Tập Thơ
- Cách Dùng Kỹ Thuật Nhồi Chữ , Điêp Dòng Thơ, Tạo Âm Hưởng Điệp Khúc
- Đổi Mớ I Trong Cá Ch Hòa Điêu
- Những Nét Mới Trong Hệ Thống Giọng Điệu Thơ Đường Luật Của Quách Tấn
Xem toàn bộ 173 trang tài liệu này.
- Đoṇ
- Môn
g bóng chiều (1965) gồm 108 bài thất ngôn tuyêṭ cú .
g Ngân sơn (1966) gồm 135 bài ngũ ngôn tuyêṭ cú .
- Giọt trăng (1973) in 60 bài ngũ ngôn tuyệt cú, chọn từ bản thảo 100 bài.
Ngoài ra, những tâp thơ chưa xuât́ ban̉ mà gia đình nhà thơ cho biêt́ như Tiếng
vàng khô viết theo thể thất ngôn bát cú ; Mây cổ thá p theo thể ngũ ngôn bát cú ;
Cánh chim thu theo thể ngũ ngôn và thất ngôn bát cú v.v..
Con số thống kê như trên đủ để khẳng điṇ h Quách Tấn là nhà thơ có sở trường
về thơ cách luât
và thơ của ông có nhiều câu thơ , nhiều bài thơ hay , “có những câu
thơ đep
nhất trong những câu thơ đep
nhất của văn hoc
Viêṭ Nam ” như nhà thơ Chế
Lan Viên khen tăṇ g . Những câu thơ, những bài thơ như : Đêm thu nghe quạ kêu , Đa
Lạt đêm sương , Môn
g Ngân Sơn , Môn
g thấy Hà n Măc
Tử , Qua Phú Yên tứ c cảnh ,
Bên sông, Trơ troị , Chiều xuân, Đêm tình , Tình xưa, Về thăm nhà cảm tá c v.v.. là
những ví du. Điêù đó còn dùng để giaỉ thích taị sao nhà thơ tiêǹ bối Tan̉ Đà laị đăt
ông bên caṇ h các nhà thơ cổ điển như Hồ Xuân Hương , Bà Huyện Thanh Quan ,
Yên Đổ và nhà phê bình Hoài Thanh măc
nhiên công nhân
và xếp cho ông môt vi
trí xứng đáng ở bàn nhất , bàn nhì trong phong trào thơ Mới , và trích thơ của ông
đến 09 bài trong tuyển tập Thi nhân Viêt Nam [74, 267-274].
3.2. QUÁCH TẤN VỚI NHỮNG CÁCH TÂN VỀ NGÔN NGỮ THƠ
3.2.1. Những nét mới trong nghệ thuật dụng điển
Điển cố - điển tích là một trong những thủ pháp nghệ thuật đặc thù được sử dụng phổ biến trong văn học trung đại ở Trung Quốc và Việt Nam. Do ảnh hưởng triết học và mỹ học phương Đông, chủ yếu là Trung Hoa, điển cố không chỉ là một biện pháp tu từ mà còn là một cách thức độc đáo để biểu hiện tư tưởng tình cảm cũng như để xây dựng hình tượng nghệ thuật. Do vậy, về tác dụng của việc sử dụng điển cố thường góp phần vào việc nâng cao khả năng biểu hiện và tính chất hàm súc của ngôn ngữ văn học cũng như hình tượng văn học. Riêng trường hợp của Quách
Tấn, có lần ông tâm sự đại để rằng: dùng điển là để gợi ý , mươn
nguồn cảm hứ ng
chứ không phỉa vì bí ý, bí tứ mà là để diễn đạt ý tưởng cho ý nhị, kín đáo, và diễn
đạt gọn gàng [71]. Vấn đề này luận văn đã đề cập ở mục 3.1.1. Quan niêm
của nhà
thơ về viêc
dùng điển , luyên
chữ . Ở đây, luận văn chỉ đi sâu vào những nét mới
trong nghệ thuật dụng điển của Quách Tấn để thấy cái riêng, cái cá tính sáng tạo trong thơ ông. Đặc biệt, nhà thơ đã dụng điển theo phép liên tưởng – cảm giác, chứ không phải vì ông không hiểu ý của điển cố, điển tích, hay “dùng điển sai” như nhà phê bình Hoài Thanh đã chú thích ở bài Đêm thu nghe quạ kêu trong Thi nhân Việt
Nam [74,tr.271]. Theo Quách Tấn trong tác phẩm“Trườ ng Xuyên thi thoai – Những
bài thơ kỷ niệm” [73], Quách Tấn đã kể lại lai lịch , hoàn cảnh ra đời của bài thơ , thì việc dụng điển trong bài thơ này, bắt nguồn từ một địa danh Ô Y Hạng (ngõ áo đen), chính màu đen ấy, tác giả liên tưởng đến hình ảnh con quạ với sắc lông màu đen tuyền, rồi nghĩ đến bài thơ Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế, mà ở trên mục 2.4. luận văn có đề cập [xin xem tr.93-98].
3.2.2. Những cách tân về ngôn ngữ - hình ảnh thơ
3.2.2.1. Cách dùng từ ngữ có đổi mới
Nếu tiếng thơ thường hướng tới sư ̣ giao thoa , tương thông giữa con người với thiên nhiên , nhà thơ thường đặt cái “tâm” giữa thi ên nhiên , vạn vật , tạo nên cảm giác hòa điệu giữa đời sống tâm linh với ngoại cảnh , thì những từ “sơn, thủy, yên, hoa, tuyết, nguyêṭ , phong” sẽ được xuất hiện với tần số rất cao . Nói như Nguyễn
Thị Bích Hải trong Thi phá p t hơ Đườ ng là “thơ thể hiên
con người vũ tru”
[20].
Chính vì thế , những tác phẩm thơ của Quách Tấn “nhà thơ Mới mang phong cách Đường thi” cũng không nằm ngoài mạch chảy này .
Trong những tâp thơ của Quach́ Tâń , lâý Mùa cổ điể n làm ví dụ minh họa , để
“mổ xẻ”, thống kê những khung bâc
từ ngữ vừ a nêu, ta nhân
thấy:
- “Gió” (phong) : xuất hiên trong “gió trải từ mây” , “gió và ng” , “gió rải
khắp nơi nơi”, “gió mưa” (2 lần), “dì gió”, “gió hôn hoa”, “ngọn gió”, “hồn gió”,
“gió qua mà nh” , “gió văn chương” , “gió bấc”, “mưa gió”, “chi ̣gió”, “ngon
gio
hương”, “bay theo gió” , “giórú ”, “gió”, “cà nh gió” , “gió về‟ , “gió tự mô về” ,
“gió hồi hôp
cây”, “gió thu”, “ngon
gió vè o”, “gió sương”. Tất cả 25 lần trên tổng
số 36 bài thơ trong tập Mùa cổ điển, chiếm tỷ lê ̣69,4%.
- “Mây” (vân): “Nhà n vân”, “tờ mây”, “mây trắng” , “lưng mây” , “mây ấp
nguyêṭ ”, “mây rôn
g” , “mây xa” , “mây chiều” , “nướ c mây” (2 lần), “mây qua
chái”, “mây thu”, rồng mây”, “bè o mây”, “non mây”, “mây nướ c”, “từ ng mây”, “mây ủ ê trờ i”, “mây phớ i”, “mây nú i”. Tất cả 20 lần chiếm tỷ lê ̣55,5%.
- Sương: xuất hiên
trong “rừ ng sương”, (2 lần), “sương thấp thoá ng” , “theo
sương”, “sương mai”, “sương rơi”, “sương buông”, “mà n sương”, “pha sương”, “nắng sương”, “trong sương”, “cà nh sương”, “cỏ sương”, “phân sương”, “ngà n sương”, “vườ n sương” , “đồi sương” , “sương bac̣ ” , “gió sương” . Tất cả 19 lần, chiếm tỷ lê ̣53%.
- “Trăng” (nguyêṭ ) : xuất hiên
trong “nguyêt
mơ mà ng” , “thân gầy vớ i
nguyêṭ ”, “mây ấp nguyêṭ ” , “môt
trăng cao” , “tóc trăng” , “nà ng trăng” , “trăng
hôn lá ”, „gương nguyêṭ ” , “trăng dầm gối” , “nườ ng trăng”, “bến nguyêṭ ” , “bóng trăng run” , “trăng lại tròn trăng” , “chở nguyêṭ ” , “neo nguyêṭ ” . Tất cả 15 lần, chiếm tỷ lê ̣42%.
- “Thủy” (nướ c): xuất hiên trong “Sóng mà i nghiên biên̉ ” , “sông chau măṭ ” ,
“Sông Xích Bích” , “nướ c trôi xuôi” , “nướ c mây” (2 lần), “biển Đông” , “biển nướ c”, “gởi nướ c non ai” , “mây nướ c” , “gương nướ c” , “sông đừ a” , “nướ c
vướ ng”, “trờ i biển”, “sóng trằn troc biên̉ ”. Tât́ cả 15 lâǹ , chiêḿ tỷ lê ̣42%.
- “Hoa” : xuất hiên
trong “thiếu nữ bưng hoa” , “gió hôn hoa” , “hồn hoa
chơp
môn
g” , “luống cú c già ” , “hoa đâm
hương” , “bóng hoa nô đù a” , “lê ̣hoa
rơi”, “cá nh hải đườ ng” , “cú c vẩn vơ hồn” , “cú c nở nhìn nhau” , hoa tỉ muôị ” , “rè m hoa”, “hoa thơm”. Tất cả 13 lần, chiếm tỷ lê ̣36, 1%.
- Thu : xuất hiên
trong “trờ i thu” , “thu sông Xích Bích” , “rừ ng thu” , “giot
mưa thu” , “sông thu” , “mây thu” , “mấy lươt
mưa thu” , “thu mờ ” , “vườ n thu” ,
“hồn thu”, “gió thu”, “phòng thu”. Tất cả 12 lần, chiếm tỷ lê ̣33,3%.
- Sơn (núi) : xuất hiên
trong “nú i bac
đầu” , “Hà n sơn”, “non côi”, “non gối
nướ c”, “đầu non” , “non mây” , “mây nú i” , “non chồng” , “và ng lử ng lo non” , “ngòi non chấm”. Tất cả 10 lần, chiếm 28%.
- Liêu
: xuất hiên
trong “nương rè m liêu
” , “liêu
riêng xuân” , “dướ i liêu
chơ
xuân”, “rừ ng dương liêu
”, “tóc liêu
”, “liêu
né p tườ ng”, “liêu
rối bờ i”, “liêu
nhởn
nhơ”, “ngà n liêu
khóc”, “vườ n tú y liêu
”. Tất cả 10 lần, chiếm tỷ lê ̣ 28%.
- Nhạn : xuất hiên
trong “nhan
đề”, “vôi
và ng cá nh nhan
” , “nhan
lac
trờ i” ,
“nhan
lạc đàn”, “lòng bac̣ h nhan
”, “đưa thư nhan
”. Tất cả 6 lần, chiếm tỷ lê ̣17%.
- Yên (khói) : xuất hiên
trong “quây quần mây khói” , “nghê phơi khói”, “khói
trần gian” , “khói mây quanh quẩn hồi chuông run
11%.
g” . Tất cả 4 lần, chiếm tỷ lê
- Đic̣ h : xuất hiên
trong “tiếng đic̣ h”, “tiếng đic̣ h xa”, “tiếng đic̣ h dồn”, “lòng
nương tiếng đic̣ h”. Tất cả 4 lần, chiếm tỷ lê ̣11%.
Sở dĩ luân
văn chon
tâp
thơ Mùa cổ điển để thống kê nhằm làm ví dụ minh họa
cho “cách dùng từ ngữ có đổi mới” của Quách Tấn , bởi lẽ vi ̣trí của tâp
thơ trên thi
đàn đã đươc
các nhà phê bình đánh giá rất cao và so với các tâp
thơ khác thì đây
cũng là tập thơ tâm đắc và chất chứa nhiều kỷ niệm của Q uách Tấn.
Nếu thơ ngày xưa , các thi nhân thường ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên thì trong thơ Quách Tấn , những từ ch ỉ thiên nhiên như :“phong, vân, sương, nguyêṭ , thủy,
hoa, thu, sơn, liêu
, nhạn, yên, đic̣ h...” có tần số xuất hiện cao . Đây là những từ mà
thơ cổ ưa dùng , và Quách Tấn đã nối tiếp bút pháp , cách dùng từ đó của các tiền nhân.
Nhưng nét khác biêṭ giữa cách dùng từ của Quách Tấn nếu so sánh với các cụ
ngày xưa, có lẽ ở chỗ Mùa cổ điển tiếp nối cái cũ và hôi
nhâp
cái mới . Về khía caṇ h
này, từ ngữ trong tâp
Mùa cổ điển có thể chia thành ba loại : loại từ ngữ dùng trong
thơ cũ, loại từ ngữ dùng trong thơ mới hoặc thơ cũ đều được , và loại từ ngữ dù ng trong thơ mới.
Chẳng haṇ , từ“nguyêṭ ” (trăng) có tần số xuất hiện 15 lần đươc phân thaǹ h.
Loại 1: gồm “gương nguyêt
nghìn thu” , tần số xuất hiên
môt
lần , chiếm tỷ lê
6,6%. Vì “gương nguyêṭ ” đứ ng bên caṇ h từ ngữ cũ“nghìn thu”, nên cum từ ,
“gương nguyêt
nghìn thu”, thuôc
loaị từ ngữ dùng trong thơ cũ.
Loại 2: gồm “Nguyêt
mơ mà ng” , “mây ấp nguyêṭ ” , “nà ng trăng” , “nườ ng
trăng”, “bến nguyêṭ ” , “chở nguyêṭ ” , “neo nguyêṭ ” , tần số xuất hiên
7 lần, chiếm
46,6%. Vì những nhóm từ này mang tính chất trung tính , không biểu hiên
rõ tính
khác biệt giữa cũ và mới nên các nhóm từ này thuộc loại từ ngữ dùng trong thơ cũ , thơ mới đều đươc̣ .
Loại 3: gồm “thân gầy vớ i nguyêṭ ”, “môt trăng cao”, “tóc trăng”, “trăng hôn
lá”, “trăng dầm gối”, “bóng trăng run”, “trăng lai tròn trăng”. Tâǹ số xuât́ hiên 7
lần, chiếm 46,6%. Vì mang tính chất dấu ấn cá nhân cá tính sáng tạo , biểu hiên tính khác biệt giữa cũ và mới nên các cụm này thuộc loại từ ngữ trong thơ mới .
rõ
Những điều vừ a trình bày trên đây càng khẳng điṇ h thêm bút lưc taì hoa của
Quách Tấn, môt
thi sĩ thuôc
phong trào thơ Mới nhưng hơi thơ mang đâm
sắc thái
Đường thi, đồng thời trong “cá i cũ” vân của Quách Tấn.
nhân
thấy “cá i mớ i” , “cá i tôi sá ng tao”
3.2.2.2. Cách dùng từ ghép nghĩa trên cơ sở láy âm (từ ghép - láy)
Đây là sư ̣ sáng tao
đăc
biêṭ trong cách chon
từ , dùng từ của Quách Tấn nhằm
đaṭ đươc
muc
đích câu thơ mang sắc thái biểu cảm cao .
Đi vào ví du ̣cu ̣thể : “Khói mây quanh quấn hồi chuông von nao tiếng đic̣ h dồn.” (Chiều xuân)
g , / Trờ i biển nôn
Duyên ngô ̣đằm thắm không xa , “quanh quẩn” gần đây và “quấn quít”, không
rời nhau của từ ghép nghia “quanh quấn”, mang tính ham̀ súc trong câu thơ trên bắt
đầu từ môt
buổi chiều xuân.
Buổi chiều xuân trong bài thơ này nằm ở giao điểm nắng chiều diu dâǹ và
bóng hoàng hôn đang ch ờ chực sẵn “Chim mang về tổ bóng hoà ng hôn” . Non xa
lử ng lơ môt maù vaǹ g của nắng chiêù xuân vắt ngang trên lưng trời , và trong không
gian mờ xa , nắng chiều dìu diu không sań g hẳn , xa xa khó phân biêṭ đâu là biên̉ ,
đâu là bờ , thì cồn cát kia đọng một màu xanh biếc của biển , “và ng lử ng lơ non biếc
đon
g cồn” . Hương của gió trên cành cây làm lao xao hoa tỉ muôi
. Sóng của đồi
sương lươn
trên cỏ“Đồi sương sóng lươn
cỏ vương tôn” . Tất cả những nét đe ̣p đo
đều nằm trong không gian nắng chiều dìu dịu , mờ xa đươc trên.
miêu tả ở mấy câu thơ
Vì vậy, theo lôgic cấu tứ của bài thơ , không gian chiều xuân với đăc
điểm mơ
xa trong nắng chiều vàng dìu diu
đươc
chuyển tiếp:
Khói mây quanh quấn hồi chuông vong, Trờ i biển nôn nao tiếng đic̣ h dồn.
Ở đây “khói mây” đươc hiêủ là mây rań g của nắng vaǹ g chiêù xuân hòa quyên
với khói lam chiều từ nhà ai đó đang bay lên tu ̣lai
, trôi bồng bềnh “quanh quẩn”
đâu đây và “quấn quít” làn sóng âm vang của từng hồi chuông chùa vọng lại ,
không chiu
rời xa nhau . Và ở phía chân trời xa , biển nôn nao chờ đón tiếng đic̣ h
như là chờ đón sư ̣ tinh lăṇ g của vũ tru ̣mênh mông bao la .
Qua viêc
tìm hiể u về nguyên nhân và ý nghia
của sư ̣ xuất hiên
từ “quanh
quấn” trong câu thơ trên và trong không gian chiều xuân , ta nhân
thấy rằng tư
“quanh quấn” đươc
ghép nghia
từ “quanh quẩn” và “quấn quít” , trên cơ sơ
phương thứ c láy phu ̣âm đầu “qu”. Mà hiệu quả thẩm mỹ là kết hợp khéo léo , hòa
hơp
giữa hình ảnh “khói mây” với “hồi chuông von
g” qua đôṇ g từ “quanh quẩn”
đứ ng giữa tao
hơp
, nhân duyên của cuôc
sống nhân sinh chân chất bình di ̣. Ở đó, có
thể t ìm thấy sự súc tích và giàu hình ảnh của chữ nghĩa . Câu thơ gơi nhiêù suy
tưởng. Suy tưởng về sư ̣ nuối tiếc buổi nắng vàng chiều xuân trước khi màn đêm
buông xuống. Suy tưởng về sư ̣ lưu luyến của cuôc
nhân duyên hòa hơp
diê ̣u kỳ giữa
buổi chiều vàng phương Đông với sư ̣ tinh lăṇ g tâm hồn trong tiêń g chuông chùa
vọng lại. Suy tưởng về vòng xoáy âm thanh của từ ng hồi chuông chùa lan xa trong
không gian mênh mông và tâm điểm của nó phải chăng là cuôc chân chất, bình dị, hiền hòa?
sống nhân sinh ,
Môt
ví du ̣khác . Trong bài “Thu Trà ng An” , ở hai câu thực , Quách Tấn viết :
“Chăn gối trễ trà ng đêm thất tic̣ h , / Gió trăng chờn chợ bến hoàng đô” . Từ trê
tràng là một từ láy , có gốc là trễ với hai nét nghia
: môt
là , bị sa xuống , tụt xuống
hơn bình thường ; hai là , châm
, muôṇ . Do vây
, trễ trà ng cũng mang hai nét nghĩa :
môt
là, trễ xuống, tụt xuống một cách tự nhiên , lỏng lẻo; hai là, tỏ ra chểnh mảng, ít
để tâm tới, khiến cho bi ̣châm
hoăc
chêc̣ h choac̣ . Câu thơ “Chăn gối trễ trà ng…” có
lẽ cũng mang hai nét nghĩa trên , vừ a bi ̣tut
(trê,
sa) xuống, lỏng lẻo ; vừ a chểnh
mảng. Còn “Gió trăng chờ n chơ”
? . “Chờ n chơ”
là từ mà nhà thơ sáng taọ , nghĩ ra.
Trong tiếng Viêṭ có từ “chờ n” và từ láy “chờ n chơn”, chứ không có từ “chờ n chơ”.
Chờ n là một động từ , mang hai nét nghia
: môt
là, không còn ăn khớp vì bi ̣mòn , bị
trươt
răng; hai là , không dám làm , dám nghĩ tiếp , sau khi găp
phải khó khăn (có ý
hơi lo sơ ). Và từ chờ n chơn
là dạng láy của chờ n, mang nghia
giảm nhe ̣, hơi lo sơ ̣;
hơi bi ̣mòn . Còn “chờ n chơ”
thì sao ?, và thế nào là Gió trăng chờn chợ ?. Có lẽ ,
chờ n chợ mang nét nghia gâǹ với chờ n vờ n , chỉ trạng thái lượn lờ , quanh quân̉ ,
không chiu
rời ra. Chắc là đêm hôm thất tic̣ h ấy nơi bến Hương giang , có gió nhưng
gió rất nhẹ , khẽ; có trăng nhưng là trăng non đầu tháng nên lờ mờ, không tỏ . Đêm ấy trăng thì lờ mờ , gió thì lượn lờ quanh quẩn nơi bến sông :“Gió trăng chờ n chợ bến hoà ng đô”.
Từ ngữ trong câu thơ trên gơi
nhiều hơn tả , thưc
và tươn
g trưng; đó là nét mới,
sinh đôṇ g , đôc
đáo của ngôn ngữ thơ ca thể hiên
phong cách thơ Quách Tấn qua
cách dùng từ ghép nghĩa trên cơ sở láy âm (từ ghép – láy).
3.2.2.3. Cách dùng từ vừa bộc lộ sắc thái biểu cảm vừa phù hợp với kỹ thuật phố i thanh theo quy luật: thấp – cao
Tiêu biểu nhất là trường hơp
đôṇ g từ “cơṭ ” trong câu “Gió và ng cơt
sá ng sông
chau măṭ , / Mây trắng vờ n cây nú i bac
đầu .” (Cảm thu ). Đoc
bài thơ , người đoc
nhân
thấy sư ̣ hòa hơp
giữa cảnh và tình.
“Cảm thu” là tiếng thơ th ương cảm cho tấm lòng của ai đó như mùa thu kia
sầu khổ vì tương tư “Tương tư nhuôm trắng má i đầu non xanh” (Thương thu), thiêt́
tưởng đã giải mã hô ̣câu “Mây trắng vờ n cây nú i bac
đầu”.
Câu thơ “gió và ng cơt
sóng sông chau măṭ ” cần đươc
hiểu là : Hình ảnh sông
thu kia có vẻ như không bằng lòng trước “cử chỉ vuốt ve” , mang tính chất “đù a cơṭ ” của chị gió , làm xáo động một sự bình lặng vốn là tính cố hữu của một tâm
hồn tin
h lăṇ g. Có thể nói đôṇ g từ “cơṭ ” - “vờ n” bổ sung nghia
cho nhau , căp
đôṇ g
từ mang sách thái biểu cảm cao . Cả hai động từ này đối xứng nhau , đều chỉ một
hành động , môt
thái đô ̣ “lẳng lơ” của “gió và ng” và “mây trắng” . Chính hành
đôṇ g “cơṭ ” - “vờ n” đấy đã làm sông phải “chau măṭ ” còn núi thì “bac
đầu” . Ở
đây, sông, núi, gió, mây mang tính cách của con người , có những tâm tư như con người.
Măṭ khác, về kỹ thuâṭ phối thanh luâṭ thấp – cao (trầm – bổng) âm tiết “cơṭ ”
hiên
ở vi ̣trí chữ 3 mang thanh trắc thấp kết hơp
với âm tiết “sóng” hiên
ở vi ̣trí chữ
thứ 4 liền kề phía sau mang thanh trắc cao . Sư ̣ kết hơp
này phù hơp
với kỹ thuât
phối thanh luâṭ thấp – cao. Chính nhờ sự kết hợp như trên mà hầu hết những câu thơ của Quách Tấn đều giàu sức biểu cảm và giàu chất nhạc .
3.2.2.4. Cách dùng từ ngữ tinh hoa dân gian một cách chính xác về sắc thái biểu cảm theo cảm xú c mớ i – hướ ng nôị
Đó là trường hơp
đôṇ g từ“đừ a” trong câu “Gió rủ canh đi ngà n liêu
khóc /
Sông đừ a lanh tớ i bóng trăng run” (Bên sông).
Bài thơ ghi lại cảm xúc về nỗi buồn mênh mông , xa vắng của chủ thể trữ tình , khi tình và cảnh bên sông trong đêm cùng một tâm trạng buồn.
Mở đầu bài thơ , trong môt đêm naò đó không biêt́ là canh mâý có trăng sań g
đủ để nhìn rõ ngon
gió khuya laṇ h làm xao đôṇ g bóng liêu
đang soi mình dưới
nước. Kế đến , trên sông gió khuya khe khẽ “đừ a” măṭ n ước. Vì gió không dám
“lù a” hoăc “đù a” bởi sơ ̣ lam̀ kinh đôṇ g bóng trăng đang soi mình dưới sông .
Nhưng tiếc thay đã làm xao đôṇ g bóng trăng , làm cho “bóng trăng run” .
Để rồi sau đó , kế tiếp, hình tượng nghệ thuật mang ý nghĩ a khái quát xuất hiên
xa xa , trong đêm tối tin
h mic̣ h , giữa bốn bề sông nước vắng lăṇ g bên kia sông ,
không biết tiếng hát từ thuyền ai vẳng lai , vang xa vaò mênh mông , như bắc nhip
cầu cho tâm traṇ g buồn của người đứ ng đơi bên bờ sông.
Kết thúc bài thơ bằng hình ảnh liên tưởng tương đồng . Tiếng hát bên sông hay
điêu
đàn lẻ ban
? Chiếc thuyền đôc
hành hay hành trình tinh thần đi tìm cái “đep̣ ”
của một người chịu cảnh “lẻ điêụ ”, “trơ troị ”, “hiu quanh” ... đang thổn thứ c cùng gió khuya lạnh , cùng bóng liễu rũ buồn , cùng bóng trăng run , cùng vạn vật , cùng trời đất...
Không biết bầu tâm sư ̣ của chủ thể trữ tình trong bài thơ “Bên sông” nhiều hay
ít, chỉ thấy nói là “gởi chút buồn”. Nhưng dù thế nào cũng không thể không có nỗi