Những Bài Học Về Vai Trò Của Kiểm Toán Hoạt Động Rút Ra Từ Kinh Nghiệm Của Các Nước


là cơ sở cho Quốc hội và Chính phủ đưa ra các quyết định ưu tiên về các khoản đầu tư trong tương lai...

Để góp phần nâng cao vai trò của kiểm toán hoạt động ở Thụy Điển, đòi hỏi cần thực hiện tốt việc lựa chọn vấn đề kiểm toán và xây dựng tiêu chí đánh giá, cụ thể như sau:

Lựa chọn các vấn đề kiểm toán thực hiện như sau: Thứ nhất: Các vấn đề có liên quan gồm: Một là, Vật chất (độ lớn các khoản tiền có liên quan hoặc sự quan trọng của vấn đề đối với người dân); Hai là, Rủi ro (các vấn đề mà các ban, ngành hoặc các chương trình không được quản lý một cách hiệu quả). Rủi ro có thể xuất hiện khi các luật mới, kỹ thuật mới được ban hành hoặc trong điều kiện môi trường (địa điểm, nhân viên, công việc mới...) làm việc có sự thay đổi; Ba là, Các kiểu vấn đề (cơ cấu tổ chức, tính chất dài hạn hay ngắn hạn); Thứ hai: Khả năng thực hiện một cuộc kiểm toán gồm: Một là, Các nguồn lực sẵn có (kinh phí, phương tiện và thời gian kiểm toán); Hai là, Các phương pháp ứng dụng liên quan đền cuộc kiểm toán (phương pháp trong kế hoạch, sự hỗ trợ của các chuyên gia tư vấn bên ngoài); Ba là, Các kỹ năng kiểm toán có liên quan; Các đánh giá trong quy trình; Thứ ba: Các thay đổi tiềm năng gồm: Một là, Các giải pháp có thể (ngoại trừ gia tăng nguồn lực được phân phối); Hai là, Mối quan tâm tới sự thay đổi từ các khách thể kiểm toán hoặc Chính phủ...

Xây dựng các tiêu chí đánh giá được tiến hành theo nguyên tắc: Tiêu chí đánh giá một cuộc kiểm toán hoạt động chính là các chuẩn mực để đánh giá hoạt động của đơn vị được kiểm toán gồm: Một là, Sự thích ứng: Các thông tin nêu trong báo cáo cần phải thích ứng với vấn đề được phân tích; Hai là, Độ tin cậy và giá trị pháp lý: Các thông tin thông báo cho những người sử dụng phải đảm bảo độ tin cậy và chính xác; Ba là, Tính khách quan: Các thông tin được cung cấp trong báo cáo phải đảm bảo tính khách quan; Bốn là, Tính thiết thực: Dạng thông tin được đề cập tới trong báo cáo kiểm toán về bất cứ đề tài nào được phải phù hợp với tầm quan trọng, độ nhạy cảm


và có ích cho những người sử dụng; Năm là, Tính so sánh: Các thông tin được cung cấp trong báo cáo kiểm toán phải là cơ sở để thúc đẩy các đơn vị được kiểm toán đẩy mạnh hơn nữa công tác quản lý của mình so với trước khi kiểm toán; Sáu là, Khả năng có thể tiếp cận: Báo cáo kiểm toán cần giải thích một cách rõ ràng các thông tin cụ thể hơn có thể thu thập bằng cách nào và ở đâu; Bảy là, Tính dễ hiểu: Một người nhận được thông tin nhưng lại thiếu kiến thức về các hoạt động của Chính phủ và đối tượng được kiểm toán cần có khả năng hiểu được báo cáo kiểm toán.

1.3.1.4. Vai trò của kiểm toán hoạt động ở Trung quốc

Kiểm toán Nhà nước Trung Quốc có quyền kiểm toán trách nhiệm kinh tế và có quyền ra quyết định xử lý những hành vi vi phạm của đơn vị được kiểm toán. Kiểm toán Nhà nước Trung ương Trung quốc (CNAO) do Chính phủ thành lập, chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ. Vai trò của kiểm toán hoạt động do kiểm toán nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thực hiện được thể hiện qua một số nội dung cơ bản sau: (1) kiểm toán, giám sát tính chân thật, hợp pháp và hiệu quả về thu, chi tài chính của các ngành thuộc Quốc vụ viện và của chính quyền các cấp ở địa phương, (2) kiểm toán các ngành thuộc chính quyền ở Trung ương (Quốc vụ viện) và chính quyền địa phương; (3) kiểm toán việc thu, chi tài vụ của các cơ quan tiền tệ ngân hàng, ngành tài chính, hệ thống thuế, hải quan, hệ thống kho bạc nhà nước... Việc kiểm toán các cơ quan, đơn vị như nêu trên của Kiểm toán Nhà nước Trung Quốc đã góp phần giúp cho các đơn vị tiết kiệm kinh phí, nâng cao hiệu quả chi tiêu... và là một trong những công cụ quan trọng của Đảng Cộng sản và Quốc vụ viện Trung Quốc trong công cuộc phòng, chống tham nhũng. Vai trò của Cơ quan Kiểm toán Nhà nước Trung Quốc nói chung, kiểm toán hoạt động nói riêng ở Trung Quốc được thể hiện qua một số công việc sau đây: một là, có quyền yêu cầu người phụ trách của đơn vị được kiểm toán hứa hẹn bằng văn bản về tính chân thật và tính hoàn chỉnh của những tài liệu kế toán do đơn vị mình cung cấp; hai là, có quyền kiểm tra các số


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.

liệu điện tử và hệ thống thông tin máy tính có liên quan đến thu, chi tài chính, thu, chi tài vụ của đơn vị được kiểm toán; ba là, có quyền xét hỏi khoản tiền công mà cơ quan được kiểm toán gửi tại ngân hàng với danh nghĩa cá nhân; bốn là, có quyền đề nghị sự giúp đỡ của các ngành như công an, tài chính, thuế...; năm là, trong trường hợp đơn vị được kiểm toán từ chối thi hành quyết định kiểm toán, không giao nộp các khoản tiền có liên quan, Cơ quan Kiểm toán Nhà nước Trung Quốc có quyền thông báo cho ngành tài chính hoặc các ngành có liên quan khác khấu trừ để nộp hoặc đề nghị với Tòa án nhân dân cưỡng chế thi hành...

Để góp phần nâng cao vai trò của kiểm toán hoạt động ở Trung Quốc, đòi hỏi cần thực hiện tốt việc lựa chọn vấn đề kiểm toán và xây dựng tiêu chí đánh giá, cụ thể như sau:

Tăng cường vai trò của kiểm toán hoạt động ở Việt Nam do kiểm toán nhà nước thực hiện - 10

Lựa chọn các vấn đề kiểm toán thực hiện như sau: Thứ nhất, đối tượng được lựa chọn kiểm toán phải mang tính hệ trọng, phải được Đảng Cộng sản Trung Quốc, Quốc hội và nhân dân Trung Quốc quan tâm; Đối tượng đó có ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường của địa phương và quy mô đầu tư lớn; Thứ hai, đối tượng được lựa chọn kiểm toán cần gắn chặt với tình hình chung về phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra, môi trường xã hội cũng cần được xem xét (tính hiệu quả); Thứ ba, tính khả thi của việc thực hiện kiểm toán có nghĩa là kiểm toán viên và cơ quan kiểm toán có đủ năng lực để thực hiện cuộc kiểm toán hoạt động đối với đối tượng kiểm toán được lựa chọn?; Thứ tư, tính kinh tế của cuộc kiểm toán với đối tượng kiểm toán được lựa chọn. Việc thực hiện kiểm toán đối tượng được lựa chọn cần cải thiện và mang lại lợi ích kinh tế xã hội?

Xây dựng các tiêu chí đánh giá được tiến hành theo nguyên tắc: Khi lập kế hoạch kiểm toán một dự án, một chương trình, một đơn vị, tổ chức..., Kiểm toán Nhà nước sẽ tổ chức hội thảo có sự tham gia của đại diện các cơ quan quản lý nhà nước trong các lĩnh vực có liên quan, các chuyên gia trong


các lĩnh vực của dự án, chương trình, đơn vị, tổ chức được lựa chọn kiểm toán. Các tiêu chí đánh giá được thống nhất lựa chọn từ Cơ quan Kiểm toán Nhà nước trung ương, đơn vị được kiểm toán, các cơ quan quản lý nhà nước liên quan, các chuyên gia... Các tiêu chí được lựa chọn gồm các chỉ tiêu định tính nhằm đánh giá các mục tiêu kinh tế - xã hội của chương trình, dự án...; các tiêu chí định lượng được xây dựng từ các nguồn như báo cáo nghiên cứu khả thi, các chỉ tiêu của ngành, các chỉ tiêu của kỳ trước, năm trước, các chỉ tiêu dự báo, các chỉ tiêu do các chuyên gia đề xuất... Các tiêu chí được lựa chọn phải đảm bảo các điều kiện như: Mang tính khách quan, có độ tin cậy cao, dễ hiểu, đầy đủ và có thể so sánh được.

1.3.2. Những bài học về vai trò của kiểm toán hoạt động rút ra từ kinh nghiệm của các nước

Việc nghiên cứu kiểm toán hoạt động tại một số nước cho thấy về cơ bản kiểm toán hoạt động có khá nhiều điểm giống nhau, đó là tập trung vào đánh giá về tính kinh tế, tính hiệu quả và hiệu lực của việc sử dụng các nguồn lực tài chính của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, nhưng vẫn có sự khác nhau đáng kể về nhiều vấn đề liên quan đến cơ sở pháp lý, lựa chọn các vấn đề kiểm toán và xây dựng các tiêu chí đánh giá. Tuy nhiên, những vấn đề chung nhất có thể rút ra về kiểm toán hoạt động qua nghiên cứu mô hình và kinh nghiệm của một số nước có thể khái quát như sau:

Thứ nhất, Về cơ sở pháp lý

Hầu hết các nước địa vị pháp lý của Cơ quan Kiểm toán Nhà nước được quy định trong Hiến pháp hoặc trong các Luật, có thể nói đây là điều kiện tương đối quan trọng để Cơ quan Kiểm toán Nhà nước thực thi nhiệm vụ của mình. Đồng thời đây cũng là điều kiện để triển khai đồng bộ các loại hình kiểm toán, nhất là triển khai kiểm toán hoạt động tại hầu hết các lĩnh vực quan trọng mà bộ, ngành và các địa phương đang quản lý nhằm đánh giá tính kinh tế, tính hiệu quả và tính hiệu lực. Chính vì vậy để kiểm toán hoạt động ở


Việt Nam được tiến hành thường xuyên hơn, đòi hỏi trong thời gian tới cần bổ sung vào Hiến pháp một số quy định về địa vị pháp lý, các loại hình kiểm toán, nhiệm vụ của Cơ quan Kiểm toán Nhà nước, thẩm quyền bổ nhiệm, miễm nhiệm Tổng Kiểm toán Nhà nước như Hiến pháp một số nước đã quy định và nhất là việc xây dựng quy trình, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ... về kiểm toán hoạt động của Cơ quan Kiểm toán Nhà nước.

Thứ hai, Về lựa chọn các vấn đề trong kiểm toán hoạt động

Qua kinh nghiệm của các nước cho thấy việc lựa chọn các vấn đề kiểm toán trên cơ sở các nguyên tắc sau: Một là, những vấn đề quan trọng được Quốc hội, Chính phủ và người dân quan tâm; Các vấn đề lựa chọn kiểm toán cần gắn chặt với tình hình chung về phát triển kinh tế - xã hội; Hai là, những vấn đề, lĩnh vực nổi cộm, có nhiều ý kiến bức xúc từ công luận; Ba là, những vấn đề được lựa chọn theo khả năng thực hiện, từ nhỏ đến lớn, từ nông tới sâu và từ đơn giản tới phức tạp. Các cuộc kiểm toán hoạt động nên được tiến hành thường xuyên.

Thứ ba, Về xây dựng các tiêu chí đánh giá trong kiểm toán hoạt động

Các tiêu chí kiểm toán hoạt động là những tiêu chuẩn hiệu quả hợp lý có thể đạt được mà theo đó có thể đánh giá tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực của các hoạt động: Chúng phản ánh một mô hình mang tính quy chuẩn (lý tưởng) đối với đối tượng mà kiểm toán hoạt động cần xem xét; Chúng thể hiện những thông lệ tốt hoặc tốt nhất. Khi đối chiếu các tiêu chí với hiện trạng sẽ tạo ra các phát hiện kiểm toán: Nếu đạt được hoặc vượt các tiêu chí thì đó là "thông lệ tốt nhất“, còn nếu không đạt được các tiêu chí thì có thể cần những cải tiến. Các tiêu chí thích hợp đảm bảo một số tính chất sau:

Một là, độ tin cậy: Các tiêu chí đáng tin cậy sẽ giúp đưa ra những kết luận nhất quán cả khi kiểm toán viên khác sử dụng trong điều kiện tương tự;

Hai là, tính khách quan: Các tiêu chí khách quan sẽ làm cho các đánh giá không bị ảnh hưởng bởi định kiến của kiểm toán viên hay lãnh đạo;

Ba là, tính hữu ích: Các tiêu chí hữu ích sẽ dẫn đến những phát hiện và kết luận thoả mãn nhu cầu thông tin của người sử dụng;


Bốn là, tính dễ hiểu: Các tiêu chí dễ hiểu được diễn đạt rõ ràng và không để có những khác biệt lớn trong cách diễn giải;

Năm là, khả năng so sánh: Các tiêu chí có thể so sánh được phải thống nhất với những tiêu chí đã được sử dụng trong kiểm toán hoạt động ở những đơn vị hoặc hoạt động khác tương tự và trong những cuộc kiểm toán hoạt động trước đây tại cùng đơn vị được kiểm toán;

Sáu là, tính đầy đủ: Đòi hỏi bao hàm toàn bộ các tiêu chí quan trọng, thích hợp cho việc đánh giá một hành vi kinh tế.

Bảy là, tính chấp nhận được: Các tiêu chí chấp nhận được là tiêu chí mà nói chung các chuyên gia trong lĩnh vực đó, các đơn vị được kiểm toán, cơ quan lập pháp, các phương tiện truyền thông và công chúng đều thừa nhận và sử dụng. Khi tiến hành một cuộc kiểm toán hoạt động, các tiêu chí có thể quan trọng và có ích về nhiều mặt, cụ thể: Thứ nhất, chúng tạo thành một cơ sở chung để trao đổi trong đoàn kiểm toán và với lãnh đạo của Kiểm toán Nhà nước về bản chất của cuộc kiểm toán; Thứ hai, chúng tạo thành một cơ sở trao đổi thông tin với lãnh đạo đơn vị được kiểm toán; Thứ ba, chúng tạo thành một cơ sở để thu thập dữ liệu và qua đó để xây dựng các phương thức tiến hành thu thập bằng chứng kiểm toán; Thứ tư, chúng tạo cơ sở cho các phát hiện kiểm toán và trợ giúp trong việc tạo khung và cấu trúc cho các phát hiện kiểm toán.

Các tiêu chí phát huy ở chừng mực nào trong các ứng dụng trên phụ thuộc vào hình thức và mức độ diễn tả của chúng cũng như khả năng vận dụng của kiểm toán viên. Các tiêu chí kiểm toán phải được sử dụng một cách khách quan. Điều đó đòi hỏi kiểm toán viên phải có những cân nhắc hợp lý và tư duy phán xét tỉnh táo, phải có hiểu biết cơ bản về lĩnh vực sẽ được kiểm toán và nắm được những quy định luật pháp, các văn bản có liên quan khác cũng như những khảo sát và kiểm toán gần đây về lĩnh vực đó...

Tóm lại: Việc nghiên cứu tương đối đầy đủ và toàn diện về kiểm toán hoạt động bao gồm khái niệm, lịch sử hình thành và phát triển, đặc điểm, mục


tiêu, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng tới vai trò của kiểm toán hoạt động ở Việt Nam do kiểm toán nhà nước thực hiện, cho đến vai trò của kiểm toán hoạt động ở một số nước trên thế giới, trong giai đoạn hiện nay ở nước ta có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. Thông qua việc nghiên cứu nói trên đã chỉ rõ được vai trò to lớn của kiểm toán hoạt động trong quản lý tài chính ngân sách ở cả hai cấp độ (vĩ mô và vi mô). Cụ thể:

Vai trò của kiểm toán hoạt động tầm vĩ mô được thể hiện: (1) là một trong những nhân tố góp phần đảm bảo, duy trì tính kinh tế, tính hiệu quả trong hoạt động kinh tế; (2) góp phần làm lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế - tài chính trong nền kinh tế; (3) đề xuất những giải pháp nhằm góp phần thực hiện cơ chế chính sách tài chính, lập và giao kế hoạch ngân sách nhà nước, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch ngân sách nhà nước; (4) góp phần phòng ngừa các sai phạm trong quản lý tài chính, cung cấp thông tin cho công luận về các hoạt động kinh tế - xã hội, thực hành quyền giám sát và thu hút vốn đầu tư cho toàn xã hội…

Vai trò của kiểm toán hoạt động tầm vi mô được thể hiện: (1) chỉ ra các tồn tại và nguyên nhân của các tồn tại; (2) cải thiện tính kinh tế; (3) nâng cao tính hiệu quả; (4) tăng cường tính hiệu lực; (5) cải thiện chất lượng đầu ra thông qua việc giảm thiểu thời gian cung cấp sản phẩm, dịch vụ; (6) cải thiện hệ thống kiểm soát nội bộ; (7) tăng cường trách nhiệm giải trình của đơn vị được kiểm toán; (8) nâng cao chất lượng thông tin…


Chương 2

THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA KIỂM TOÁN HOẠT ĐỘNG Ở VIỆT NAM DO KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC THỰC HIỆN


2.1. Khái quát về kiểm toán nhà nước và kiểm toán hoạt động

2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Cơ quan Kiểm toán Nhà nước

Kiểm toán Nhà nước được thành lập theo Nghị định số 70/CP ngày 11/7/1994 của Chính phủ, được tổ chức và hoạt động theo Quyết định số 61/TTg ngày 24/01/1995 của Thủ tướng Chính phủ và được bổ sung, hoàn thiện một bước về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức tại Nghị định số 93/2003/NĐ-CP ngày 13/8/2003 của Chính phủ. Sau 15 năm hoạt động, Kiểm toán Nhà nước đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong cơ cấu bộ máy nhà nước; khẳng định được sự cần thiết, tính tất yếu khách quan của công cụ kiểm tra, kiểm soát hoạt động quản lý kinh tế - tài chính nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và là công cụ quan trọng trong công cuộc phòng chống tham nhũng, lãng phí ở Việt Nam. Luật Kiểm toán nhà nước có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2006 đã mở ra giai đoạn phát triển mới của Kiểm toán Nhà nước với vị thế là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Trong 15 năm qua, tổ chức, bộ máy, đội ngũ kiểm toán viên của Cơ quan Kiểm toán Nhà nước đã phát triển vượt bậc, liên tục được củng cố và hoàn thiện hơn. Khi mới thành lập chỉ có 4 kiểm toán nhà nước chuyên ngành và Văn phòng với vài chục cán bộ từ các bộ, ngành, và địa phương, đến nay Kiểm toán Nhà nước đã có bộ máy theo mô hình tập trung thống nhất gồm 25 đơn vị cấp Vụ trực thuộc, trong đó có 6 đơn vị tham mưu, giúp việc, 7 Kiểm toán Nhà nước chuyên ngành ở Trung ương, 9 Kiểm toán Nhà nước khu vực đóng trên địa bàn các địa phương và 3 đơn vị sự nghiệp. Chi tiết cơ cấu tổ chức của Kiểm toán Nhà nước nêu tại Sơ đồ 2.1 sau.

Xem tất cả 208 trang.

Ngày đăng: 27/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí